PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂN
Phần 4 _ XVIII. Khai thị....
__________________________________________________ ______________________________________


XVIII. Khai thị trong pháp hội Thủy Lục Không tại Thượng Hải

Pháp hội cầu nguyện thế giới hòa bình đã được cử hành qua vài ngày. Thật là một pháp duyên hy hữu. Hôm nay là ngày đầu tiên khai mở đàn tràng niệm Phật. Đúng ra là phải do hòa thượng Diệu Chân đến giảng, nhưng Ngài lại cùng với pháp sư Vi Phảng, cư sĩ Triệu Nghiệp Sơ, Lý Tư Hoạt, Phương Tử Phiên v.v..., đồng thỉnh tôi ra thuyết pháp.

Sẵn dịp này, tôi muốn nói về sự quan hệ giữa Thiền tông và Tịnh Độ tông để cho những vị mới phát tâm học Phật pháp tiện việc hiểu rõ.

Chúng ta sống trong thế giới Ta Bà, tức đang bơi trong biển khổ. Thế nên, không một ai lại chẳng muốn thoát khỏi biển khổ này. Tuy nhiên, muốn thoát ra được thì chúng ta phải nương theo Phật pháp. Bàn về chân đế của Phật pháp, nói nghiêm túc thì không pháp nào có thể thuyết được, vì chỉ là hình tướng trên lời nói, ngôn ngữ. Kinh Lăng Nghiêm nói: "Nếu còn dùng lời mà nói thì không phải là pháp chân thật".

Tuy nhiên, vì chúng sanh căn tánh không đồng, nên muốn tiếp dẫn thì phải dùng vô số pháp môn. Phật pháp tại Trung Quốc có phân rõ ra năm tông phái như Thiền tông, Mật tông, Tịnh Độ tông, Giáo tông, và Luật tông. Đối với người đã từng nghiên cứu học hỏi tu tập thì đã quá đủ rồi, vì họ biết rằng chân lý Phật pháp vốn không sai biệt. Người mới học Phật pháp, lại phát sanh ra nhiều ý kiến, mỗi mỗi phân rõ tông này phái nọ v.v..., rồi khen mình chê người, làm tổn hại giá trị giáo hóa vi diệu của Phật pháp. Phải biết rằng một câu thoại đầu hay một câu niệm Phật chỉ là phương tiện, chứ chẳng phải là cứu cánh. Đối với người chân thật dụng công thì những phương tiện này thật không cần thiết. Tại sao ? Vì động tịnh vốn nhất như; bóng trăng soi khắp ngàn sông, nơi nơi đều rõ ràng, không bị chướng ngại. Người bị chướng ngại như mây che trời xanh hay nước trong bị vẫn đục. Nếu có chướng ngại, tuy có trăng mà ánh sáng không hiển bày. Nước tuy trong mà trăng không hiện rõ. Chúng ta, những người tu hành, nếu muốn hiểu rõ lý đạo, phải biết tự tâm như trăng rằm mùa thu, không nên hướng ngoại tìm cầu mà phải xoay lại ánh sáng trong tâm mình (hồi quang phản chiếu). Một niệm nếu không sanh thì hiểu rõ nơi không chỗ chứng đắc. Khi ấy, làm gì lại có danh tướng sai biệt ?

Nhân vì chúng ta từ vô lượng kiếp đến nay, vọng tưởng chấp trước, tập khí nặng nề nên đấng Thế Tôn trong bốn mươi chín năm trường, thuyết pháp giảng kinh hơn ba trăm hội. Tuy nhiên, mục đích quan trọng nhất trong việc thuyết giảng kinh điển hay dạy những pháp môn tu hành của đức Thế Tôn là không ngoài việc chữa trị các bịnh tật tham lam, sân hận, si mê, ngã mạn, ác kiến của chúng sanh. Nếu chúng ta xa rời tất cả bịnh tật đó thì liền thành Phật. Chúng ta và chư Phật, cùng chúng sanh nào có khác biệt chi đâu ! Người xưa nói:

- Dùng phương tiện thì có nhiều pháp môn, nhưng khi trở về cội nguồn thì đồng nhau không khác.

Lý đạo là thế. Hiện tại, trong Phật pháp có hai tông phái rất thịnh hành là Thiền tông và Tịnh Độ tông. Tuy nhiên, có một số tăng chúng lại coi thường giới luật; điều này thật không hợp lý đạo. Yếu nghĩa căn bản của Phật pháp là dựa trên ba chữ: Giới, Định, Huệ. Giống như tòa trầm hương có ba chân, nếu thiếu mất một chân thì không thể đứng được. Vì vậy, chúng ta người học Phật pháp, mỗi người phải đặc biệt chú ý điều này !