DIỄN ĐÀN PHẬT PHÁP THỰC HÀNH - Powered by vBulletin




Cùng nhau tu học Phật pháp - Hành trình Chân lý !            Hướng chúng sinh đi, hướng chúng sinh đi, để làm Phật sự không đối đãi.


Tánh Chúng sinh cùng Phật Quốc chỉ một,
Tướng Bồ Đề hóa Liên hoa muôn vạn.

Trang 14/20 ĐầuĐầu ... 41213141516 ... CuốiCuối
Hiện kết quả từ 131 tới 140 của 196
  1. #131
    NỤ Avatar của nguoi ao lam
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    885
    Thanks
    487
    Thanked 474 Times in 127 Posts
    PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂN
    Phần 7
    __________________________________________________ ______________________________________


    24/ Khai thị trong ngày tết giữa năm

    Hôm nay, Tết giữa năm vốn là ngày vui của người thế tục. Là người xuất gia, chớ nên đắm trước. Khi xưa, Hư Vân tôi cũng tùy thuận thế tình, sống gần thành phố, được người cúng dường bánh chưng. Chùa chiền cũng hưởng tết như thế tục. Hiện tại, núi Vân Cư không có ai cúng dường bánh chưng. Bánh chưng vốn để cúng cho Quỷ Thần, sao chúng ta lại đi gói bánh này? Nấu nướng bánh chưng thật uổng phí công sức, thời gian, mà chỉ nên nấu cơm nếp để ăn Tết thôi.

    Người người sống trên thế gian, phải nên lưu tiếng tốt lại thiên cổ, chớ để vết nhơ ngàn năm. Quốc gia trọng nhất là trung, nghĩa, tiết, lễ. Đệ tử Phật một niệm không sanh liền nhận ra bổn lai diện mục của mình, còn hơi sức đâu để ý đến điềm lành họa phúc. Song, nếu chưa đạt đến lý Vô sanh thì chưa có thể tránh khỏi điềm lành dữ họa phúc.

    Vài ngày qua, có nhiều cơn bão lụt. Năm ngoái, bão lụt xảy ra cũng trong những ngày này. E rằng bão lụt năm nay phá hoại mùa màng nghiêm trọng hơn những năm trước. Vì xả chấp trước không nổi, tôi đi ra ngoài cửa núi, thấy dưới chân núi nước chảy lan tràn như biển cả. Lúa mạ trên đồng bị tổn hoại rất nhiều so với năm rồi. Lương thực của dân chúng không biết ra sao! Tài chánh và việc mua thực phẩm của chúng ta cũng trở thành vấn đề rắc rối. Thế nên, đại chúng hãy cố gắng chịu cực khổ để qua cửa ải này.

    Những lần ngoài chợ không có bán gạo, may mắn nhờ ơn chính phủ chiếu cố, nên mua được lúa thóc. Lúc trước, mỗi người mua được một ký rưởi gạo. Hiện nay, bị giảm bớt bốn lượng, chỉ còn hai mươi lượng. Một trăm cân lúa, xay ra chỉ còn bảy mươi cân gạo. Mua nhiều lúa thì không được. Một trăm ký lúa tốn hai mươi đồng. Một trăm ký bột gạo tốn bốn mươi đồng. Tốn hao rất nhiều, nhưng chẳng mua thì không thể được. Đại chúng hãy lượng ước mà ăn. Từ đây về sau, không thể ăn cơm, mà chỉ ăn cháo. Mua lúa thì sợ rằng mua không được, mà lúa trồng thì chưa chín. Chúng ta hãy nhổ khoai tây, nấu chung với cháo mà ăn. Mỗi cân khoai tây, mắc một đồng hai mươi xu. Giá khoai mắc hơn giá gạo. Song, khoai do chúng ta tự trồng, nên không tốn hao tiền. Ăn khoai độn với cháo, hãy cố gắng vượt qua cửa ải gian nan này.

    Xác thân nát _ Thế giới mất _ Nguyện vẫn còn.

  2. #132
    NỤ Avatar của nguoi ao lam
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    885
    Thanks
    487
    Thanked 474 Times in 127 Posts
    PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂN
    Phần 7
    __________________________________________________ ______________________________________


    25/ Rằm tháng năm

    Lễ Bố Tát ở tùng lâm được tổ chức hai lần trong mỗi tháng, tức là ngày rằm và cuối tháng. Chiếu theo Kinh Phạm Võng và Tứ Phần giới bổn, nửa tháng tụng giới một lần. Nay tôi đơn lược giải thích. Giới, tiếng Phạn gọi là Thi La. Tàu dịch là Tịnh Trụ, Thiện Trụ, Trưởng Dưỡng. Mỗi nửa tháng, tập hợp đại chúng để thuyết giới, khiến tỳ kheo trụ trong tịnh giới, và có khả năng trưởng dưỡng pháp lành. Phật quán thấy tất cả chúng sanh bị khổ não trong vòng luân hồi, vì bỏ giác hợp với trần lao, tập khí nặng nề. Do đó, Ngài phải phương tiện chế ra giới luật, để khiến họ đoạn trừ tập khí, bỏ trần lao mà hợp với tánh giác.

    Luật tức bàn về giới luật. Tiếng Phạn gọi là Tỳ Nại Da. Tàu gọi là Diệt hay Luật; tân dịch là điều phục. Giới luật diệt các điều xấu ác, nên gọi là diệt. Luật pháp ở thế gian phán xét tội nặng nhẹ, cũng gọi là luật. Điều hòa các nghiệp thân miệng ý, cùng chế phục các hạnh ác, nên gọi là điều phục. Quy thức của giới luật rất nhiều. Sợ quý vị quên mất nên Phật dạy rằng mỗi tháng phải tụng giới hai lần. Giới Bồ Tát là thể. Giới tỳ kheo là dụng. Trong ngoài nếu nhất như, thì thân tâm được tự tại. Tụng giới chẳng phải chỉ dùng miệng lưỡi đọc văn từ, mà tụng được thì phải hành được. Giảng đến việc trì giới thật rất khó khăn. Lệch một chút, liền phạm giới. Trì giới như đầu đội chảo dầu sôi; nếu không cẩn thận, để nghiêng lệch chút ít, thì dầu liền đổ ra, tức là phạm giới. Mỗi nửa tháng tụng giới xong, phải nhớ phải hành. Miệng tụng, tâm tư duy, để khi gặp cảnh đối duyên thì không phạm giới, và không khởi mười điều ác. Vì những lý do đó, Phật bảo chư tỳ kheo phải tụng giới hai lần trong một tháng.

    Người sơ phát tâm tu đạo, cung cách bên ngoài phải nên cẩn thận. Rất nhiều vị lão tăng, cung cách diện mạo cũng chưa hợp với đạo cho lắm. Nếu một đời chất trực, tinh tấn chuyển hóa, hun đúc thân tâm, mọi nơi mọi thời đều không để phạm giới, thì mới được xem là tỳ kheo thanh tịnh. Trong giới luật, tuy có phân tánh giới, giá giới, nặng nhẹ, nhưng chớ phạm giới nào. Trì giới thanh tịnh như trăng sáng mùa thu, thật không dễ dàng, phải nên chú ý. Lúc tỳ kheo tụng giới, người chưa thọ giới không thể lắng nghe. Các Sa Di phải đến trai đường tụng giới, rồi nghe hòa thượng phó chúc dạy bảo.

    Quý vị chớ quên bổn phận xuất gia. Biểu hiện tướng xuất gia không khó, chỉ việc cạo tóc đắp y ca sa liền được gọi là tăng sĩ. Hiện tại, có nhiều cư sĩ thường cạo đầu. Thế thì ai là tăng sĩ chân thật? Như người uống nước, tự biết lạnh nóng. Hy vọng mọi người hãy nên tinh tấn.

    Xác thân nát _ Thế giới mất _ Nguyện vẫn còn.

  3. #133
    NỤ Avatar của nguoi ao lam
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    885
    Thanks
    487
    Thanked 474 Times in 127 Posts
    PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂN
    Phần 7
    __________________________________________________ ______________________________________


    26/ Ngày mười sáu tháng năm

    Đêm qua tôi đã nói về việc tụng giới pháp hai lần trong một tháng, tức ngày rằm và đầu tháng. Đây là lời giáo huấn phát xuất từ kim khẩu của đức Thế Tôn. Khi Phật sắp nhập Niết Bàn, tôn giả A Nan hỏi:

    - Bạch đức Thế Tôn! Chư tỳ kheo đời vị lai phải tôn ai làm thầy?

    Phật bảo:

    - Tỳ kheo các ông, sau khi Ta diệt độ, phải nên tôn kính Ba La Đề Mộc Xoa, như mờ tối được sáng, như người nghèo được châu báu. Nên biết, giới pháp chính là bậc đạo sư của các ông, không khác gì như Ta còn tại thế.

    Ba La Đề Mộc Xoa tiếng Tàu gọi là biệt giải thoát, tức bảy phi năm thiên giới cấm của thân miệng. Nếu không phạm thì mới được giải thoát. Tôn Ba La Đề Mộc Xoa làm thầy, tức kính giới là bậc đạo sư.

    Giới pháp có rất nhiều loại. Do đó, sợ rằng dễ dàng quên mất và phạm đến, nên mỗi nửa tháng phải tụng giới một lần để trì giữ. Đã thọ giới nào thì phải thường tụng, và nghe giới đó. Chưa thọ thì không được tụng hay nghe giới. Chưa thọ giới mà lại tụng giới, thì bất hợp pháp. Vì vậy, trước khi thọ giới, thầy tụng giới hỏi:

    - Người chưa thọ giới Bồ Tát, trong đây có ra khỏi chưa?

    Thầy Duy Na đáp:

    - Trong đây không có ai chưa thọ giới Bồ Tát.

    Lúc tụng giới tỳ kheo, cũng phải hỏi như thế. Đệ tử Phật có bảy hạng: Một là Tỳ Kheo. Hai là Tỳ Kheo Ny; đây là nam nữ thọ giới Cụ Túc. Ba là Thức Xoa Ma Na, tức người nữ tập học sáu giới pháp. Bốn là Sa Di. Năm là Sa Di Ni; đây là nam nữ thọ mười giới. Sáu là Ưu Bà Tắc. Bảy là Ưu Bà Di; đây là nam nữ thọ năm giới căn bản. Sa Di không được nghe chư Tỳ Kheo tụng giới, vì sợ rằng nếu Sa Di thấy Tỳ Kheo phạm giới liền sanh tâm cống cao ngã mạn, khinh bỉ chư tăng. Thế nên, trước khi tụng giới, Sa Di đến trai đường, đảnh lễ quỳ xuống. Vị Thượng Tọa liền vỗ ấn, bảo:

    - Các Sa Di hãy lắng nghe! Thân người khó được, giới pháp khó nghe. Thời giờ qua mau, đạo nghiệp khó thành. Mỗi người phải tự thanh tịnh thân miệng ý, chuyên cần học tập kinh luật luận, cẩn trọng chớ nên làm biếng.

    Chúng Sa Di thưa:

    - Chúng con y giáo phụng hành.

    - Các ông có khả năng tín thọ phụng hành. Vậy hãy đứng dậy, lễ bái rồi lui ra.

    Sau khi Sa Di lễ bái và lui ra, chư Tỳ Kheo mới bắt đầu tụng giới. Đã thọ giới Phật chế, liền đắc giới thể thanh tịnh, tức được giải thoát, nhập quả vị Phật, đồng như đấng đại giác, mới là Phật tử chân chánh. Thọ giới pháp của chư Phật là một việc rất hy hữu. Vì vậy, sau khi thọ giới, phải nên cẩn trọng hộ trì giới pháp. Thà chết mà vẫn giữ giới, còn hơn sống mà mất giới.

    Luật Tăng Kỳ viết: "Nước Ba La Chi có hai vị tỳ kheo cùng nhau đến thành Xá Vệ, định vấn pháp nơi đức Thế Tôn. Giữa đường, miệng khát mà không có nước uống. Khi đến một giếng nước, vị Tỳ Kheo thứ nhất liền lấy tay vớt nước uống. Vị Tỳ Kheo thứ hai thấy nước có trùng, nên không dám uống. Thấy vậy, vị Tỳ Kheo thứ nhất hỏi:

    - Sao Thầy không uống nước?

    Vị Tỳ Kheo thứ hai bảo:

    - Đức Thế Tôn chế giới, không được uống nước có trùng.

    - Nếu không chịu uống, chắc Thầy phải chết khát, thì làm sao gặp được đức Thế Tôn?

    - Thà thân này chết, chớ không dám phạm giới Phật chế.

    Chẳng bao lâu, vị thầy thứ hai bị chết vì khát, nhưng thần hồn lại vãng sanh lên cung trời Đao Lợi, được thân trời đầy đủ phước báo. Tối hôm đó, vị trời này liền bay đến nơi Phật trú, đảnh lễ chân Phật, rồi ngồi nghe pháp yếu, đắc được pháp nhãn thanh tịnh. Hôm sau, vị tỳ kheo uống nước có trùng, đi đến nơi Phật trú.

    Phật biết duyên cớ, nhưng vẫn cố ý hỏi:

    - Ông từ đâu đến, đi có bạn không?

    Xác thân nát _ Thế giới mất _ Nguyện vẫn còn.

  4. #134
    NỤ Avatar của nguoi ao lam
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    885
    Thanks
    487
    Thanked 474 Times in 127 Posts
    PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂN
    Phần 7
    __________________________________________________ ______________________________________


    Vị tỳ kheo kia liền thuật lại sự tình. Nghe xong, Phật quở:

    - Ông là kẻ ngu si, không xứng đáng đến đây gặp Ta. Người gặp Ta đầu tiên, chính là tỳ kheo chết khát. Nếu có tỳ kheo, phóng dật giải đãi, không nhiếp các căn, tuy cùng sống chung với Ta một nơi, mà thật rất xa Ta. Tuy gặp nơi đây, nhưng Ta thực chẳng thấy ông. Nếu các tỳ kheo ở nơi bờ bể, không phóng dật giãi đãi, thường luôn tinh tấn, thúc liễm các căn, tuy ở xa nhưng Ta thường thấy và thường gần gũi người này".

    Từ sáng đến tối, so với vị tỳ kheo giữ giới, chúng ta giống như trư bát giới, chim thiêu khí chướng, vậy có phải là Phật tử chân chánh không? Phật chế giới cho chư tỳ kheo là trước khi uống nước, phải dùng đãy lọc nước. Lọc xong rồi mới được dùng. Hiện nay ở trong nước, ai thường dùng đãy lọc nước? Phật cũng chế giới phương tiện là khi uống chỉ dùng mắt thường mà nhìn xem nước có trùng hay không, chứ không nên dùng thiên nhãn. Nếu nhìn bằng thiên nhãn, thì sẽ thấy trong nước có rất nhiều côn trùng, nên không thể uống được. Nếu miễn cưỡng mà uống, thì phạm giới cấm. Chiếu theo quy định của quyển Tỳ Ni Nhật Dụng, trước khi uống nước, dầu có thấy trùng hay không, đều phải tụng kệ chú. Kệ viết: "Phật quán thấy trong một cốc nước, có tám muôn bốn ngàn côn trùng. Nếu không trì chú này, như ăn thịt của chúng sanh".

    Chú viết: "Án bạt tất ba la ma ni sa ha".

    Thời gian qua mau, mỗi ngày mười hai thời: Sáng sáu thời, và chiều sáu thời. Mỗi ngày có hai mươi bốn tiếng. Mỗi tiếng có bốn khắc. Mỗi khắc có mười lăm phút. Mỗi phút có sáu mươi giây. Thời giờ trôi qua mau trong từng sát na; bỗng chốc lại vụt đến già. Các vị sa di, từ lúc lọt lòng cho đến nay, chớp mắt đã được hai ba mươi tuổi. Quý vị có thấy thời gian trôi qua mau, mà đạo nghiệp khó thành chăng? Người vừa xuất gia, đạo tâm rất chân thành, nhưng vì đạo nghiệp chưa thành, nên ngày lại qua ngày, trở thành lười biếng. Vì thế bảo:

    - Năm đầu xuất gia, thấy Phật trước mắt. Năm sau, thấy Phật ở Tây Thiên. Năm thứ ba, hỏi Phật cho tiền.

    Nếu đạo tâm không bền vững dài lâu, thì đạo nghiệp khó thành. Đạo tâm như sương mai buổi sáng, thì làm sao cắt đứt sanh tử? Do đó, lời phó chúc cuối cùng của tôi:

    - Mỗi người phải thanh tịnh thân miệng ý, chuyên cần tu học kinh luật luận, cẩn trọng chớ phóng dật lười biếng.

    Tôi xin khuyên quý vị hãy tinh tấn, chớ để thối tâm. Khổng Tử bảo:

    - Phải thường hành những điều đã học.

    Chớ phân biệt ngày đêm sáng tối, đi đứng nằm ngồi, mà phải giặt giũ rèn luyện thân tâm, khiến ba nghiệp thanh tịnh.

    Kinh là đường lộ, tức con đường thoát khỏi sanh tử. Luật tức là giới luật, bao gồm năm giới, mười giới, cụ túc giới, Bồ Tát giới. Luận tức là những lời trước tác của các vị đại đệ tử Phật về việc phát dương diệu nghĩa trong kinh và luật. Các vị sa di phải nên phát tâm vì đạo, thường chuyên cần tu học kinh luật luận, chớ để phí uổng thời giờ.

    Xác thân nát _ Thế giới mất _ Nguyện vẫn còn.

  5. #135
    NỤ Avatar của nguoi ao lam
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    885
    Thanks
    487
    Thanked 474 Times in 127 Posts
    PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂN
    Phần 7
    __________________________________________________ ______________________________________


    27/ Ngày mười bảy tháng năm

    Xưa kia, Triệu Châu hỏi Nam Tuyền:

    - Thế nào là đạo?

    Nam Tuyền đáp:

    - Tâm bình thường là đạo.

    - Có thể hướng đến được không?

    - Nếu vừa nghĩ hướng đến tức có giai cấp.

    - Nếu không suy nghĩ thì làm sao biết đó là đạo?

    - Đạo không bám chấp vào cái biết hay cái không biết. Biết tức là vọng giác. Không biết tức là vô ký. Nếu thật sự đạt đến chỗ không còn nghi ngờ gì về đạo, giống như hư không, rộng rãi thênh thang, sao còn bám vào thị phi nhân ngã?

    Triệu Châu nghe lời này bèn ngộ đạo.

    Chúng ta bắt chước người xưa, nói lời trống rỗng, bảo để tâm bình thường, mà tâm này ai ai cũng có, nhưng thấy được đạo gì? Điều trọng yếu là nếu nhận ra tâm bình thường, thì nơi nơi đều là đạo. Không nhận biết tâm bình thường thì điên đảo suốt ngày. Tại sao? Chúng ta không chịu xoay đầu, nhìn lại chính mình, chỉ lo hướng ngoại truy cầu, bỏ tánh giác, hợp với trần lao. Từ sáng đến tối, lưu chuyển theo ngoại cảnh, bỏ đạo rong đuổi bên ngoài, tìm sờ không được gương mặt của mình. Sao gọi là tâm bình thường? Tâm bình thường tức là tâm dài lâu. Từ đầu năm đến cuối năm, từ sanh đến tử, thường thường như thế, mới gọi là tâm bình thường.

    Ví như người thế tục, nếu tiếp đãi khách quen thuộc, thì chỉ dùng cơm nước bình thường, mà không bày biện món ngon vật lạ. Tiếp đãi như thế, có thể làm dài lâu, tức là bình thường. Nếu khách quý đến, phải bày biện món ngon vật lạ, nhưng chỉ có thể thiết đãi trong vài ngày, nên nào phải là bình thường. Nhà nhà không thể thường có lễ lộc, vì chiêu đãi khách khứa bất bình thường thì không thể làm dài lâu. Người tu đạo, nếu dụng tâm không tạo tác, không an bài, không cải biến, không có lời hoa ngôn xảo ngữ, tức là hợp với đạo, tức là tâm bình thường, và tức là khởi trực tâm. Lục Tổ bảo thiền sư Trí Hoàng:

    - Nếu tâm ông như hư không, chẳng chấp không kiến, ứng dụng vô ngại, động tĩnh vô tâm, tình ái phàm thánh đều quên, năng sở đều câu thông diệt mất, thì tánh tướng như như, không thời bất định.

    Những lời này, bàn về tâm bình thường. Nếu không thể tu hành tương ưng với những lời dạy đó thì luôn sống trong hang động quỷ ma, tức tâm không bình thường.

    Đêm qua, tôi có nói đến giới luật. Người vừa phát khởi tín tâm, liền quy y Tam Bảo, cầu thọ năm giới. Tiến lên một bước, biết đời người là khổ, nên xả tục xuất gia, vào núi tu đạo. Nhận biết tỳ kheo là tôn quý, nên phát tâm thọ giới cụ túc. Lại phát tâm rộng lớn, cầu thọ giới Bồ Tát. Tại giới đường, nghe thầy dẫn lễ bảo:

    - Phải luôn khởi tâm sám hối, hổ thẹn.

    Khi ấy, vì sợ khổ đau trong sáu đường luân hồi mà phát tâm tu hành. Nghe pháp mà rơi lệ.

    Tiếp đến, hòa thượng giới sư bảo:

    - Quý vị có thể trì giới được không?

    Các tân giới tử liền đáp:

    - Chúng con có thể phụng trì.

    Như thế, liền thọ xong giới. Song, vừa thọ giới xong các thói quen tật xấu lại phát sanh, khiến thối thất đạo tâm, tức tâm không bình thường. Nghĩa là cứ mãi dùng tham sân si làm tâm bình thường.

    Xác thân nát _ Thế giới mất _ Nguyện vẫn còn.

  6. #136
    NỤ Avatar của nguoi ao lam
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    885
    Thanks
    487
    Thanked 474 Times in 127 Posts
    PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂN
    Phần 7
    __________________________________________________ ______________________________________


    Người hiểu đạo, động tĩnh vô tâm, không nghĩ thiện ác. Tánh không tức vô tâm. Vô tâm tức là đạo. Người vừa xuất gia, không biết như thế nào là Phật pháp, quy củ, tu hành. Nếu muốn cắt đứt sanh tử, phải hành theo quy củ. Khổng Tử chế lễ nhạc chẳng ngoài việc dạy quy củ cho người. Thân chấp trì giới pháp tức là trừ khử tập khí. Thân được tự do, thì tâm có chỗ để nương y.

    Người xưa có viết kệ về bốn oai nghi, đi đứng nằm ngồi:

    "Cử tiếng niệm Phật, nước chảy chậm

    Tụng kinh hành đạo, nhạn du hành

    Chắp tay trước ngực, như bưng nước

    Thân thẳng trên đầu, tựa chén dầu

    Xem trước nhìn sau, nhẹ nhàng bước

    Phải trái xoay thân, khép nửa mắt

    Oai nghi động tĩnh, thường như thế

    Chẳng uổng cửa không, làm tỳ kheo".


    Âm thanh ngọc ngà trong trẻo thanh khiết, xưng niệm thánh hiệu chư Phật, tức là hành pháp môn niệm Phật. Tiến lên một bước, tự hỏi mình rằng ai đang niệm Phật, tức tham thiền. Không chịu xoay đầu nhìn lại chính mình, miệng chỉ niệm Phật mà tâm lại khởi vọng tưởng, lưu chuyển theo vọng tình. Nếu như thế, niệm Phật thật vô dụng. Khi niệm Phật, miệng niệm tâm phải tư duy, và dùng trí quán chiếu; âm thanh không nhanh không chậm, như nước chảy từ từ. Miệng niệm, tai lắng nghe, không khởi vọng tưởng, thì niệm niệm lưu nhập vào biển khổ Ta Bà. Nghe một danh hiệu Phật, được vô lượng công đức. Chỉ dùng một danh hiệu Phật, mà có thể độ vô lượng chúng sanh. Khi tụng kinh, hoặc nhìn thẳng mà đọc, hoặc ngồi mà đọc, hoặc quỳ mà đọc, hoặc mặc niệm mà đọc, hoặc học thuộc lòng, v.v..., mọi cách thức đều được cả.

    Tùy theo Kinh văn mà quán tưởng, và xem trong Kinh bàn luận về đạo lý gì. Hành đạo tức đi kinh hành. Đi từng bước chân chậm rãi, không loạn động, không nghiêng bên Đông, ngả bên Tây, mà đi như nhạn bay trật tự trên nền trời. Từng bước đi không khẩn cấp, không chậm chạp. Mọi cử chỉ hành động đều dụng công. Chấp hai bàn tay lại mà chẳng để vô tâm. Mười ngón tay khắn khít với nhau, không chênh lệch, không co giản, dạng trạng như bưng cốc nước. Nếu nghiêng lệch, thì nước liền đổ ra. Thân đứng thẳng như cây tùng. Hai bàn chân hợp lại thành chữ bát. Hai ngón chân cái cách nhau khoảng tám phân. Hai gót chân cách nhau khoảng hai phân. Gáy cổ phải chạm cổ áo.


    Xác thân nát _ Thế giới mất _ Nguyện vẫn còn.

  7. #137
    NỤ Avatar của nguoi ao lam
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    885
    Thanks
    487
    Thanked 474 Times in 127 Posts
    PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂN
    Phần 7
    __________________________________________________ ______________________________________


    Đầu thẳng thừng, không nghiêng ngửa, như đang đội chén dầu, nếu không chú ý thì sẽ đổ xuống. Đi như gió, phải xem xét trước sau. Bước đi nhẹ nhàng, không kéo lê giày dép. Đi trên cầu thang, chớ làm vang tiếng động lớn. Cỏ xanh chớ dẫm, phải thương mến hộ trì sanh vật. Mắt chỉ nên mở phân nửa, nhìn không quá năm bảy thước. Đi đứng nằm ngồi, oai nghi nếu trang trọng nghiêm túc, sẽ khiến người nhìn, sanh tâm cung kính. Lúc đầu, nếu không tự khiển trách, thì tương lai làm sao giáo hóa chúng sanh được! Tự thúc thủ hành vi chân chánh, không bị đọa lạc, thì mới nhiếp hóa chúng sanh. Có tu đạo hay không, cử chỉ hành động như thế nào, người khác nhìn vào liền biết rõ. Tâm bình thường tức là tâm trước sau như một. Trải qua bao phong ba hiểm nạn, tâm này vẫn như như bất động.

    Ví như Hám Sơn lão nhân, Ngài là bậc mô phạm cho chúng ta. Ngài sanh vào đời nhà Minh, ngày mười hai tháng mười năm Gia Tĩnh thứ hai mươi lăm (1546). Năm mười hai tuổi, xin cha mẹ cho xuất gia, rồi lễ hòa thượng Tây Lâm tại chùa Báo Ân, ở Nam Kinh, làm thầy thế độ. Sau đó, Ngài thọ giới cụ túc nơi hòa thượng Vô Cực. Sau khi hòa thượng Tây Lâm viên tịch, dầu chỉ mới được hai mươi tuổi, mọi việc lớn nhỏ trong chùa, đại chúng đều nghe theo sự quyết định của Ngài. Sau này, Ngài theo đại sư Vô Cốc ngồi thiền tại chùa Thiên Giới. Năm hai mươi tám tuổi, nhân du hành đến núi Ngũ Đài, thấy cảnh núi Hám Sơn thâm sâu hùng vĩ, nên Ngài tự lấy tên núi mà đặt danh hiệu cho mình. Năm hai mươi chín tuổi, Ngài duyệt xem "Triệu Luận", bèn liễu ngộ mà không bám văn nghĩa. Thiền sư Cao Phong, pháp lữ của Ngài, bảo:

    - Xin chúc mừng! Thầy có vốn trụ núi rồi!

    Năm ba mươi tuổi, Ngài đốn ngộ, bèn viết kệ:

    "Chớp mắt tâm niệm cuồng dừng

    Căn trần nội ngoại đều thấu suốt

    Thân bay độc phá thái hư không

    Vạn tượng sum la từ khởi diệt".


    Từ lúc cắt tóc xuất gia, đến năm bảy mươi mốt tuổi, đôi chân Ngài đi du hành khắp nơi. Mỗi lần Ngài lên tòa thuyết pháp, nói một hơi cả ngàn lời. Việc này được thị giả ghi lại đầy đủ trong quyển tiểu sử niên giám của Ngài. Sự tích về cuộc đời Ngài, kể rõ rằng trong bao thập niên, dầu hoàn cảnh thiên biến vạn hóa, chịu muôn ngàn khổ đau, nhưng đạo tâm thủy chung bất biến. Đó là tâm bình thường, dài lâu. Lúc bị đày đến Lôi Dương, Ngài có viết bài Quân Trung Ngâm:

    "Cởi áo tu liền đổi dạng

    Vốn tin tùy duyên là đạo tràng

    Chịu đựng nắng gắt như lửa cháy

    Nan tiêu băng tuyết lạnh tâm tràng".


    Tâm Ngài kiên cố bất biến, mới thổ lộ ra những lời này. Ngài chính là bậc mô phạm cho chúng ta.

    Ngày nay, Phật pháp bị suy vi quá mức, vì trải qua bao phong ba bão táp. Trước ngày giải phóng, tăng ni toàn quốc có khoảng tám trăm ngàn vị. Năm ngoái, chỉ còn bảy mươi ngàn vị. Trong mười người thì có tới chín người hoàn tục. Đó là vì tâm không dài lâu, và không kiên cố. Bị lửa đốt một chút là chân đứng không yên. Nếu là Phật tử chân chính, phải nên lập chí nguyện, có đầy đủ tâm tràng sắt đá. Đầu tiên phải học oai nghi, tuân theo quy củ, mà không sợ kẻ khác bảo mình là người cứng đầu. Phải giữ tâm đến chết, mãi mãi tôn kính giáo giới của Phật. Do bao kiếp trồng căn lành, nên đời này mới được vào cửa Phật. Phải nỗ lực cầu đạo, trừ khử tập khí. Làm được những việc này rồi, thì từ từ sẽ trở thành những bậc đại tu hành, sớm đắc nhập lý thể. Chớ chạy vào chợ búa danh lợi, làm tay sai cho Quốc vương. Tâm phải kiên cố, vĩnh cửu không đổi. Tâm bình thường động tĩnh nhất như.


    Xác thân nát _ Thế giới mất _ Nguyện vẫn còn.

  8. #138
    NỤ Avatar của nguoi ao lam
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    885
    Thanks
    487
    Thanked 474 Times in 127 Posts
    PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂN
    Phần 7
    __________________________________________________ ______________________________________


    28/ Ngày mười tám tháng năm

    Trong quyển Thiền Môn Nhật Tụng có bài Phí Nhàn Ca của đại sư Hám Sơn. Mười câu đầu nói về mười việc khó. Mười việc khó đó, nếu bàn thì chỉ phí sức, mất thời gian, vô dụng, nên gọi là Phí Nhàn Ca. Nếu làm được mười việc này thì liễu thoát khỏi sanh tử. Mười việc này gồm có: Thể hội đại đạo khó; giữ quy củ khó; gặp thầy hiền khó; vượt khỏi trần lụy khó; tâm chân thật khó; ngộ đạo khó; giữ cửa ải khó; có tín tâm khó; có tâm cung kính khó; hiểu rõ lời Kinh khó.

    So với người xưa, tôi cảm thấy rất xấu hổ, không dám ra vẻ đạo mạo. Người khác xem tôi là kẻ lỗi thời, nhưng cũng có kẻ cho rằng tôi có đạo đức. Việc này tôi chẳng dám nhận. Lại nữa, có kẻ khác nhận ra tánh xấu của tôi. Những việc này, như người uống nước, lạnh nóng tự biết. Đây không phải là lời khách sáo. Người xưa bảo:

    - Vẽ hổ vẽ da, khó lường cốt. Biết người biết mặt, chẳng biết tâm.

    Tôi rất xấu hổ, ai nào biết đến? Trải qua bao năm, tôi chỉ lừa Phật ăn cơm. Quý vị chắc không tin điều này, cũng không hiểu nỗi khổ tâm của tôi. Khổ não vì nghiệp chướng, nói ra chẳng được. Hiện tại, chỉ ăn không ngồi rồi; muốn giảng giải mà thuyết chẳng hay. Thật ra những lời tôi nói ra, đều là điển chương của người xưa, hoặc là nước miếng của người khác. Tất cả đều là mắt thấy tai nghe, mà trong bao tử lại trống không. Chư Phật cùng thánh hiền, chỉ truyền một Tâm ấn, không nói lời nào. Phật Tổ tương truyền, không ngoài việc đó. Người xưa nói được thì làm được. Riêng tôi thì nói được mà làm lại không được. Kẻ sáng mắt hiểu lời này, và nhắc nhở rằng tại sao tôi không tự giảng giải cho mình!

    Ngày trước, tại Hàng Châu có người gởi thơ ẩn danh, chỉ trích tôi: "Có người tự nghĩ rằng mình là bậc tổ sư của Thiền tông. Tự tôn tự đại, nhưng phần nhiều lại thầm lặng chấp Không. Tuy tri giải đầy cả bụng, nhưng đối với bổn phận thì chẳng tương ưng chút nào. Chỉ a dua chạy theo quyền thế, thâu nhận lắm môn đồ. Tuy danh huyên náo một đời mà lại trống không... Vì thế, không thể lạm truyền giới pháp cho những người bất thánh bất hiền (tức những người xấu). Gặp những ai phải nên truyền mà lại không truyền, thì phải chịu phần trách nhiệm. Nếu truyền giới cho những người không nên truyền thì cũng phải chịu trách nhiệm. Không biết Đại Sư đã từng gặp người nên truyền mà lại không truyền, người không nên truyền mà lại đi truyền chưa?... Thứ nhất, Hòa thượng mà để tóc dài, tức loại Sa Môn tệ hại, khiến mở cửa cho ngàn đời sau, phá gia phong giới pháp, lưu vết nhơ muôn thuở, kẻ hậu học chê cười. Thứ hai, biến cố tại Vân Môn, chẳng rõ cớ sự, chỉ tự an ủi rằng việc này do quả báo túc nghiệp, khiến cho ba Tăng bị mất tích, một vị Tăng bị vong mạng. Hai việc này, chứng minh công đức Đại Sư thâm sâu quá nhỉ? Khổng Tử bảo:

    - Tôi rất may mắn vì cẩu thả tạo tội, mà người người đều biết.


    Xác thân nát _ Thế giới mất _ Nguyện vẫn còn.

  9. #139
    NỤ Avatar của nguoi ao lam
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    885
    Thanks
    487
    Thanked 474 Times in 127 Posts
    PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂN
    Phần 7
    __________________________________________________ ______________________________________


    Thơ chỉ trích này, chính là bậc thiện tri thức của tôi, thật rất tri ân. Tiếc thay, thơ không đề tên, lại không có địa chỉ hồi đáp. Người đó bảo:

    - Nhờ thần minh của Đại Sư, có thể biết được. Nếu có duyên với nhau, thỉnh cầu Đại Sư hồi đáp.

    Vì thế, tôi viết một lá thơ, gởi đến Hàng Châu, nhờ pháp sư Tâm Văn, kiểm xem lá thơ đó do ai viết, để hồi đáp thơ từ. Người đó bảo tôi rằng "tự xưng là bậc tổ sư; làm thầy tri thức của các học nhân; hạnh giải được tương ưng; làm bậc long tượng trong tông môn. Không hổ thẹn làm con mắt của trời người. Ngoài Đại Sư ra, còn có ai đảm đương nổi!"

    Việc chỉ trích đầu tiên của người đó là tôi "tự xưng là bậc Tổ sư của Thiền tông". Tôi nào dám tự xưng là bậc Tổ sư như thế đâu. Song, người này lại tán thán "ngoài Đại Sư ra, còn có ai đương đảm nổi!"

    Lời này tôi thật không dám thừa nhận. Hỏi về việc truyền giới pháp, chính tôi không biết mình có đắc giới hay không, sao lại dám bảo truyền được hay không truyền được? Luận về việc Hòa thượng để tóc dài, người khác thật không hiểu cho tôi. Lúc vừa xuất gia, vì chưa hiểu đạo lý, nên tôi lầm ngộ học hạnh đầu đà, quấn tóc kim cô. Sau này, bị Thiện tri thức mắng chửi, nên mới cắt tóc. Từ đó, mỗi năm đến đêm trừ tịch, cắt tóc một lần. Bình thường, tôi không cắt tóc và cạo râu. Tôi vốn không có ý muốn để râu tóc dài. Chiếu theo giới pháp, phải nên cắt bỏ râu tóc. Phong tục ở Trung Thổ là dùng râu tóc làm tướng đại trượng phu. Thân thể, râu tóc, thọ từ cha mẹ, nên rất nhiều chư Tổ Sư ở Trung Thổ, vì hiếu thuận như người thế tục, mà lưu râu tóc lại.

    Bàn về sự biến ở Vân Môn, người này lại trách tôi không rõ việc. Thật ra, việc này chẳng can hệ gì với tôi. Ai mất tích, ai vong mạng, tôi nào biết đến! Chư Tổ Sư xưa nay gặp nạn do quả báo túc nghiệp rất nhiều. Những lời này, vì tôi vẫn còn chấp, nên mới đối đáp. Vào lúc bình thường, dùng lời người xưa để khuyên nhủ người khác, nhưng khi chính tự gặp nghịch cảnh, thì tự mình giải mở không nổi. Tin những lời chân thật của người xưa, nhưng hành không được, thật uổng công phí sức. Đàm luận thuyết Không Không cũng vô ích. Hận cho mình chỉ lo nói suông chữ Không tầm xào. Tuổi già bịnh hoạn, không sức hành trì; khác với người xưa, muốn sống thì sống, muốn chết thì chết, đến đi tự tại.

    Quý vị sơ phát tâm, đồng môn tham học, chớ đề cao hư danh, chớ nghe những lời rỗng tuếch của tôi. Nếu không tự nỗ lực tu hành, chỉ lo hướng ngoại truy cầu, thì không thể trụ tâm được. Hành trì không hạn cuộc tại gia hay xuất gia. Cả hai đều giống nhau.


    Xác thân nát _ Thế giới mất _ Nguyện vẫn còn.

  10. #140
    NỤ Avatar của nguoi ao lam
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    885
    Thanks
    487
    Thanked 474 Times in 127 Posts
    PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂN
    Phần 7
    __________________________________________________ ______________________________________


    Hôm nay, kể cho quý vị nghe một điển tích. Đời Minh, ở tỉnh Vân Nam, có một vị họ Thái, sống ngoài thành Tiểu Đông tại Côn Minh. Cha mẹ qua đời, để lại tài sản điền viên, nên cuộc sống sung túc. Song, ông vẫn cần mẫn lao động, tự trồng rau, đem ra chợ bán để sinh sống. Vợ trẻ đẹp, nhưng háu ăn làm biếng, thường cùng Dã Hán Tử tư thông. Ông tuy biết, nhưng không nói năng gì. Lâu sau, cô vợ không e ngại, nên ngày ngày tư thông với Dã Hán Tử, chẳng thèm đoái hoài đến chồng. Ngày nọ, ông đem rau ra chợ bán, rồi mua rượu thịt, trở về nhà thật sớm. Lúc đó, Dã Hán Tử đang tư thông cùng cô vợ, chưa kịp ra khỏi nhà, nên phải ẩn núp dưới sàng giường. Vào nhà, ông xuống bếp làm cơm. Cô vợ tuy biết có việc chi không hay, nhưng làm bộ rửa mặt, rồi vào nhà bếp, phụ ông chồng nấu nướng. Nấu nướng xong, ông bảo cô vợ bày biện chén đũa. Lúc cô vợ đặt để hai chén cơm, ông lại bảo:

    - Hãy đặt thêm một chén cơm. Hôm nay tôi đãi khách.

    Vừa đặt chén bát xong, ông bảo cô vợ mời khách ra ăn cơm uống rượu. Cô vợ ra vẻ kinh ngạc:

    - Khách ở đâu?

    Ông bảo:

    - Ở trong phòng.

    Cô vợ run rẩy nói:

    - Chàng chớ nói bậy. Trong phòng làm gì có khách!

    - Chớ sợ sệt, không có chuyện gì đâu! Hãy mời hắn ra. Nếu không chịu ra, tôi sẽ cho hắn một đao.

    Cô vợ bất đắc dĩ phải vào kêu Dã Hán Tử ra. Ông mời Dã Hán Tử ngồi trên ghế cao, rồi cung kính, đưa rượu cho uống. Thấy Dã Hán Tử ngập ngừng, vì sợ trong rượu có chất độc, ông cầm ly rượu lên uống. Lúc đó, Dã Hán Tử mới an tâm. Ăn uống no nê xong, ông đứng dậy, lễ Dã Hán Tử ba lạy, bảo:

    - Hôm nay thật là duyên lành! Vợ tôi trẻ đẹp, không ai ngó đến, nhưng nay được ông chiếu cố, thật là may mắn. Gia tài và vợ của tôi đây, nay giao cho ông hết. Xin hãy tiếp nhận!

    Dã Hán Tử và cô vợ đều không dám nói năng chi. Ông liền cầm đao, bảo:

    - Nếu không đáp ứng, tôi sẽ lấy mạng các người!

    Hai người không biết làm gì, chỉ vâng dạ. Từ đó, một mình tay không, ông rời nhà đi đến núi Trường Tùng am Tây Lâm để xuất gia. Nơi đó, ông vừa tu hành vừa trồng rau để sinh sống. Sau này, công phu có phần tương đắc.

    Bàn về Dã Hán Tử, sau khi thọ nhận tài sản và sắc đẹp, chỉ lo ăn uống chơi bời biếng nhác. Ngày ngày mắng chửi đánh đập cô vợ. Ăn ở không yên, cô vợ rất hối hận, chạy đến am Tây Lâm, thỉnh cầu ông chồng cũ trở về. Tưởng đâu ông sẽ vui mừng, nhưng ông lại chẳng thèm đếm xỉa đến cô ta. Sau này, Dã Hán Tử phá sạch cả gia tài, khiến cô vợ không còn nơi nương tựa. Nhớ đến ân tình của chồng cũ, cô ta định báo đáp. Lúc trước, ông thường thích ăn cá tươi đuôi vàng ở Côn Dương. Cô vợ liền đi mua vài con, đem về nướng, rồi mang đến am Tây Lâm. Ông cầm và bảo:

    - Tôi tiếp nhận ân tình của cô, nhưng sẽ phóng sanh những con cá này.

    Cô vợ bảo:

    - Chúng đã bị nướng, không thể phóng sanh!

    Ông liền bỏ cá xuống nước. Đàn cá đều sống lại. Hiện nay, trong những truyện cổ tích tại Hắc Long Đàm ở Côn Minh, có nhắc đến loại cá đó. Ông Thái tuy là người thế tục, nhưng đối với tài sản vợ con, đều xả bỏ được hết, nên tu đạo được thành công. Nay khuyên quý vị, hãy xả bỏ muôn duyên, nỗ lực tu hành, thì quả Thánh sẽ có kỳ!


    Xác thân nát _ Thế giới mất _ Nguyện vẫn còn.

Thông tin chủ đề

Users Browsing this Thread

Hiện có 1 người đọc bài này. (0 thành viên và 1 khách)

Quyền viết bài

  • Bạn không thể gửi chủ đề mới
  • Bạn không thể gửi trả lời
  • Bạn không thể gửi file đính kèm
  • Bạn không thể sửa bài viết của mình
  •