DIỄN ĐÀN PHẬT PHÁP THỰC HÀNH - Powered by vBulletin




Cùng nhau tu học Phật pháp - Hành trình Chân lý !            Hướng chúng sinh đi, hướng chúng sinh đi, để làm Phật sự không đối đãi.


Tánh Chúng sinh cùng Phật Quốc chỉ một,
Tướng Bồ Đề hóa Liên hoa muôn vạn.

Trang 13/20 ĐầuĐầu ... 31112131415 ... CuốiCuối
Hiện kết quả từ 121 tới 130 của 196
  1. #121
    NỤ Avatar của nguoi ao lam
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    885
    Thanks
    487
    Thanked 474 Times in 127 Posts
    PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂN
    Phần 6 _ XXII. Thiền thất khai thị lần thứ hai
    __________________________________________________ ______________________________________


    16/ Ngày hai mươi mốt tháng tư.

    Phật thuyết ba tạng Kinh giáo, dạy quý vị hành trì, tu nhân lành chứng quả vị Phật, nhưng phải trải qua ba A tăng kỳ kiếp mới mong thành tựu. Song, đơn độc chỉ có Thiền tông, tu chứng mau chóng, chẳng cần "bất lịch tăng kỳ, hoạch Pháp thân", tức là không phải đợi đến ba A tăng kỳ kiếp mới đắc được Pháp thân. So sánh hai việc: Thứ nhất là phải cần tu hành trải qua muôn ngàn gian khổ, mới có thể thành tựu, thật rất khó khăn. Thứ hai là chỉ cần tự nhận ra bản tâm, tự thấy Phật tánh, ngay đó liền cắt đứt vô minh, khả dĩ mau chóng lập địa thành Phật. Thật vậy, như rắn cắn người, độc nhiễm lẹ làng. Song, không luận Tiểu Thừa, Đại Thừa, Đốn giáo, Tiệm giáo, nếu chân thật muốn trở về nhà, thật không phải là chuyện dễ.

    Quý vị từ muôn sông ngàn núi, tìm đến Vân Cư, đều vì mong nghe lời giảng dạy cách tu hành. Lúc vừa đốt hương, bèn lên ngồi trên chiếc bồ đoàn, ngừng tâm tĩnh ý, gọi là tu hành. Nghe tiếng khánh báo hiệu giờ khai tịnh, nghỉ ngơi, bèn đi ngủ. Nghe tiếng kẻng đánh ba lần, bèn thức dậy, lên chánh điện, tiếp tục dụng công tu hành. Đến giờ phân ban làm việc thì đi ăn cháo buổi sáng. Lúc ngồi ăn cháo cũng là tu hành. Ăn xong, nghe đánh kẻng thì ra đồng cuốc đất trồng rau, nung ngói gạch. Nếu lúc đi đại tiểu tiện, lại để tâm phân vân, thì quên mất mình cùng việc tu hành. Kinh Pháp Bảo Đàn nói: "Tự tánh rộng lớn, bao hàm muôn pháp. Muôn pháp nằm trong tự tánh của người người".

    Nếu chỉ lên chánh điện mới tu hành, thì công phu lúc làm lao động biến đâu mất, và công phu ngồi hương chạy đến nơi nào? Ra đồng làm ruộng để tâm phân vân. Không tu được một nơi, thì mọi nơi đều không thể dụng công, quán thoại đầu được.

    Người xưa bảo:

    - Phải hướng vào mình, chớ chạy đuổi ra ngoài cầu đạo.

    Lúc trẻ, chân tôi mang giày rơm, trèo non vượt biển, cũng vì sự tu hành tham khán thoại đầu. Tâm nhiều tham cầu, như khỉ vượn nhảy nhót hái trái cây. Hái được một trái rồi lại hái trái khác. Hái đến hái lui, cho tới lúc chẳng còn hái được. Hiện tại, đôi mắt muốn rớt xuống đất, nhìn lại thì chợt nhận biết những hành vi thuở xưa đều sai trái với đạo. Trong Tịnh Độ Thi, ngài Sở Thạch viết:

    "Đời người trăm năm, bảy tuần hy

    Hồi quán việc xưa, chẳng chút giác

    Lệ rơi mỗi lần, tuôn khắp xứ

    Bỏ Tịnh Độ nhàn, chẳng nghĩ về.

    Mây hương mã não, kết từng lớp

    Linh điểu san hô, đậu nơi cây

    Do chứng Pháp thân, không bịnh não

    Hưởng vị thiền duyệt, mãi no nê".


    Xưa nay, đời người chỉ trong bảy tám mươi năm, ít có ai sống đến một trăm tuổi. Trong bao thập niên, làm việc này việc nọ, đều là nhân ngã thị phi. Ngày nay, hồi tưởng lại, biết rõ ràng mọi việc đều chẳng đúng. Làm sao biết được? Đơn cử việc của tôi; từ lúc sơ phát tâm, vì muốn tự liễu ngộ, nên đi tham phương tầm đạo. Chư Thiện tri thức dạy tôi phát tâm Đại Thừa, chớ vì tự kỷ. Nhờ đó, tôi trùng hưng đạo tràng Phật Tổ, sửa chữa vài mươi ngôi chùa viện lớn nhỏ, nhưng chịu biết bao phiền não ma chướng khổ lụy. Thiên đường chưa xây xong mà Địa ngục đã thành. Vì người vì pháp, tuy gieo nhân thiện, nhưng lại chiêu quả xấu. Chẳng muốn kết oán thù, nhưng gặp bao điều thị phi gièm pha, phiền não trói buộc. Trong đại chúng, không thể lánh mặt. Học ngôn ngữ oanh vũ, nói vài câu điển chương của người xưa, không tránh bị kẻ khác chê cười; tự mình cũng chưa có thể hành được một câu cú. Vì hôm nay đã già nua, và không muốn giỡn cợt lừa bịp người, tạo nghiệp Địa ngục, nên đến am tranh nơi núi Vân Cư!

    Kết quả, chẳng thoát nghiệp chướng triền phược, vẫn tạo nghiệp, dựng am tiếp chúng. Tuy nói trú nơi am tranh, nhưng lại làm bao việc rối rắm. Chẳng xả chấp nê. Giảng được nhưng hành không được. Một câu thoại đầu cũng không biết chạy đi đâu! Vừa thoát tù lao, lại sa vào lưới võng. Đại sĩ Hàn Sơn viết:

    "Người hỏi đạo Hàn Sơn

    Đường Hàn Sơn chẳng thông

    Ngày hạ băng chưa tan

    Vầng dương hiện sương tan

    Theo ta sao đợi thời

    Cùng tâm người chẳng đồng

    Tâm người nếu như Ta

    Liền đạt đến nơi đó".


    Ngày hạ sương chưa tan, tức là chưa xả bỏ phiền não được. Ví như hôm trước, ông tổ trưởng vì vài việc nhỏ nhặt mà tranh cãi, bất hòa với tăng chúng. Tôi khuyên lơn ba lần, ông ta mới chịu xả bỏ. Vừa rồi, ông ta vẫn tranh cãi ầm ỉ với ông tổ trưởng sản xuất; tôi khuyên lơn mãi cũng không được. Hôm qua, ông ta đến gặp tôi xin thuốc trị bịnh. Tôi bảo:

    - Bịnh của ông không cần dùng thuốc, chỉ việc xả bỏ mọi chấp trước thì sẽ khỏe mạnh trở lại.

    Dùng những lời này, khuyên lơn người khác, nhưng lại không khuyên được chính mình, có điên đảo lắm không? Tuy bàn về chữ tu trong mấy thập niên, nhưng bao tử vẫn chứa đầy phiền não; ăn không ngon, ngủ không yên, không biết gặp loài quỷ gì? Lầm ngộ chính mình, cũng khiến người bị mê lầm. Cấy lúa cho người thì được, còn mình thì chẳng làm xong.

    Nói rất dễ, mà hành lại rất khó. Chớ tạo nghiệp xấu cho đời vị lai. Xoay lại tâm mình, liền gieo nhân lành vào ruộng phước. Đời trước vì không có công phu chân thật, chưa bước đến nơi thật địa, chưa trồng nhân lành, nên đời này cùng oan gia đối đầu tương phản. Người trẻ tuổi phải lưu tâm, chớ học theo tánh tôi, chấp trước nặng nề. Bao năm dài ngu si, chỉ có chút hư danh, chẳng ích lợi cho việc chân tham thật học. Quý vị hãy nên nỗ lực trồng nhân lành vào ruộng phước.

    Xác thân nát _ Thế giới mất _ Nguyện vẫn còn.

  2. #122
    NỤ Avatar của nguoi ao lam
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    885
    Thanks
    487
    Thanked 474 Times in 127 Posts
    PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂN
    Phần 6 _ XXII. Thiền thất khai thị lần thứ hai
    __________________________________________________ ______________________________________


    17/ Ngày hai mươi hai tháng tư

    Người xuất gia, ngày ngày giảng việc tu đạo. Thế nào gọi là tu? Tu là tu tạo. Đạo nghĩa là đạo lý. Lý là bổn tâm của mọi người. Tâm này là vật gì? Bao lời của chư Thánh được đã giải thích rõ ràng. Tâm như hư không. Song, nói đến chữ "Không" này thì vẫn còn chỗ nắm bắt. Lý Không phân ra hai phần: Chân Không và Ngu Không. Chúng ta nhìn thấy hư không tức là Ngu Không. Bất biến nhưng tùy duyên, tùy duyên lại bất biến, sáng suốt đầy diệu dụng, tùy nơi tự tại, luôn bao hàm tất cả muôn vật, đó chính là Chân Không. Người tu hành phải hiểu rõ Chân không này. Nhận biết tự tâm, tự thấy bổn tánh, thanh tịnh trắng trong, rõ ràng vô ngại, đó là thấy đạo. Đơn cử Bắc Kinh làm ví dụ. Nếu xem qua bản đồ, thì thấy được hết kinh thành Bắc Kinh, có đường lối rộng hẹp, thành ấp cung điện cao thấp, vuông tròn, rộng dài, cùng các danh mục như Nam Hải, Tây Sơn, v.v... Nhìn xem thì biết được đường đi. Song, chung cuộc vẫn không biết được nhiều như chính mình đã thực sự đến viếng thăm Bắc Kinh. Người đã đến đó, không cần bản đồ, vẫn có thể kể được đường đi nước bước rõ ràng. Người chỉ xem qua bản đồ mà chưa từng đến đó, thì lúc kẻ khác hỏi han, tuy có thể đối đáp được, nhưng chẳng chân thật, vì vẫn còn nhiều chỗ không biết đến. Người tu hành, sau khi thấy đạo, như tự thân đến Bắc Kinh, tự thấy "bổn tánh vốn tự thanh tịnh, không sanh không diệt, viên dung đầy đủ, không dao động, thường sanh muôn pháp". Người này không đồng với kẻ y theo văn tự mà giải nghĩa, chỉ thấy bản đồ Bắc Kinh, chứ chưa từng đến đó.

    Chân Không vốn tự khai mở, nào có chướng ngại. Chẳng phải Chân Không thì không thể mở bày, tức có chướng ngại. Lời nói cùng hành động không giống nhau. Thế nên bảo:

    - Không có thể "Không", tức chẳng phải Chân Không. Sắc có thể "sắc", tức chẳng phải sắc chân thật. Cha là vô danh. Mẹ là vô sắc.

    "Sắc" và "Không" nào có ngăn ngại với nhau. Nếu chân thật thấy rõ lý này, thì tự do tự tại đến Thiên đường Địa ngục; tùy duyên nhưng bất biến, bất biến lại tùy duyên, không hề chướng ngại. Người chưa hiểu lý này, tuy thuyết giảng được hoa trời rải đầy khắp đất, nhưng chẳng có lợi ích chân thật.

    Xưa kia, có một vị lão tu hành, sống trong đại chúng rất lâu, tánh tình khoan dung độ lượng, tiếp đãi người rất nồng hậu, và thường khuyên kẻ khác xả bỏ chấp nê. Lần nọ, có người hỏi:

    - Thầy khuyên dạy người, vậy tự chính mình có làm được không?

    Thầy đáp:

    - Ba mươi năm về trước, tôi đã cắt đứt vô minh, sao không làm được?

    Sau này, sống trong đại chúng, cảm thấy có vài việc không được tự do tự tại, nên Thầy bỏ chạy vào núi sâu, kết am tu hành. Sống nơi đơn độc cô phong, không người lui tới, tự do tự tại, không còn phiền não. Nào ngờ, vào ngày nọ, đang lúc ngồi thiền, Thầy nghe bên ngoài cửa, có một lũ mục đồng nhốn nháo đùa giỡn, và bảo nhau rằng muốn vào am tranh xem chơi. Có đứa nói rằng không nên làm động tâm người tu hành. Có đứa nói rằng người tu hành không còn bị động tâm niệm. Lát sau, cả lũ mục đồng ùa vào am tranh, nhảy nhót đùa giỡn. Tuy biết, Thầy vẫn ngồi thiền, an nhiên bất động, không màng đến chúng. Lũ mục đồng nhốn nháo kêu la, nhưng Thầy vẫn không thèm để ý. Chúng tưởng đâu Thầy đã chết, vì khi lung lay thân, mà không thấy động đậy. Lúc chúng sờ vào thân Thầy thì cảm thấy vẫn còn hơi nóng. Có đứa bảo:

    - Thầy này chắc đã nhập định rồi!

    Có đứa bảo rằng không tin. Để kiểm nghiệm, chúng lấy cọng rơm, ngoáy vào bắp đùi, ngoáy vào tay, ngoáy vào bụng, ngoáy vào lỗ tai, mà Thầy vẫn không động đậy. Lúc chúng ngoáy vào lỗ mũi, khiến Thầy bị hắt xì. Mở mắt ra, Thầy mắng chúng:

    - Đánh chết tụi bây!

    Khi ấy, Bồ Tát Quán Âm hiện ra trên không trung, bảo:

    - Ba mươi năm trước, ông đã đoạn hết vô minh rồi. Sao hôm nay vẫn còn phiền não, chưa xả bỏ được?

    Qua câu chuyện, chúng ta thấy rõ, nói được một trượng mà hành chẳng được một thước. Nói được một thước mà hành chẳng được một tấc. Không bị cảnh chuyển, chẳng phải dễ dàng.

    Đại sư Hám Sơn trong bài ca Phí Nhàn:

    "Giảng đạo dễ, tu hành khó

    Tạp niệm không trừ, đều là nhàn

    Trần lao thế gian, thường chướng ngại

    Núi sâu tĩnh tọa, lại phí công".


    Chúng ta là người xuất gia, nếu không phát tâm siêng năng tu hành, chỉ lo nói năng phí sức, thì không có lợi ích chân thật.

    Xác thân nát _ Thế giới mất _ Nguyện vẫn còn.

  3. #123
    NỤ Avatar của nguoi ao lam
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    885
    Thanks
    487
    Thanked 474 Times in 127 Posts
    PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂN
    Phần 6 _ XXII. Thiền thất khai thị lần thứ hai
    __________________________________________________ ______________________________________


    18/ Ngày hai mươi ba tháng tư

    Trong quyển Nguyệt San Phật Giáo viết: "Nhà Phật gặp đại nạn, vì lạm truyền giới pháp. Quy củ thất truyền, chân lý bị mai một".

    Điều này tôi cũng thường nhắc đến. Vài thập niên trước, tôi có giảng về việc Phật pháp bị suy đồi vì truyền giới không đúng như giáo pháp. Nếu truyền giới đúng như giáo pháp, và Tăng Ni vẫn còn nghiêm thủ giới luật cẩn mật, thì Phật giáo không đến đỗi bị suy vi như hiện tại. Tôi tự rất xấu hổ. Lúc vừa xuất gia, không biết gì là giới, chỉ cắm đầu tu khổ hạnh, vì cho rằng ăn đọt thông, uống nước suối, chính là tu đạo. Pháp Đại Thừa, Tiểu Thừa, ba Tạng, mười hai phần Kinh, tất cả đều chẳng biết đến.

    Núi Cổ Sơn, tỉnh Phước Kiến, là nơi danh lam thắng cảnh, có vài tu viện am tranh, và có hàng trăm Tăng sĩ. Người xa gần đều nghe tiếng, nên tôi mới đến đó xuất gia. Giới kỳ trên núi Cổ Sơn chỉ có tám ngày. Thật ra, tại nơi đó việc truyền giới chỉ có bốn năm ngày thôi. Vào ngày mồng một tháng tư, Tân giới tử mang bản tên vào giới đường. Kế đến, vội vã học quy củ thiền môn, cùng làm rất nhiều thủ tục. Nơi đó, chẳng có giới đàn Tỳ kheo. Tân giới tử không biết họ sẽ thọ những giới gì. Vào ngày thứ tám, Giới tử lên đàn dâng hương, liền tính là đã thọ giới xong. Sau này, tôi đi lưu lạc khắp xứ, nhận biết cách thức truyền giới nơi nơi đều khác nhau. Chùa Quốc Thanh ở núi Thiên Thai giới kỳ có năm mươi ba ngày, nhưng chỉ có các tiểu Hòa thượng thọ giới. Giới kỳ tại núi Phổ Đà có mười tám ngày, được gọi là giới A La Hán. Giới kỳ tại chùa Thiên Đồng có mười sáu ngày. Giới kỳ tại chùa Bảo Hoa có năm mươi ba ngày. Phủ Ninh Quốc, tỉnh An Huy, giới kỳ có ba ngày. Ở Huy Châu, có một ngôi chùa tổ chức giới kỳ rất mau, chỉ trong vòng một ngày một đêm, được gọi là Nhất Dạ Thanh.

    Sau này, xem lại Kinh Luật, mới biết những cách thức truyền giới như thế, đều không hợp với giới pháp. Kinh Lăng Nghiêm nói: "Trong mười vị Giới sư (tức tam sư thất chứng), nếu có một vị không thanh tịnh, thì đàn tràng thọ giới đó không thể thành tựu".

    Điều này chứng minh rằng một trong mười vị giới sư, nếu không được thanh tịnh, thì giới đàn không thành tựu. Kinh Lăng Nghiêm lại bảo: "Đoan tọa an cư, trải qua một trăm ngày, nếu có người lợi căn, không rời chỗ ngồi, liền đắc quả Tu Đà Hoàn. Thân tâm từ đó, tuy quả Thánh chưa thành, mà quyết tự biết, thành Phật chẳng xa".

    Việc truyền giới trong thời cận đại, không xem trọng là các vị thầy truyền giới có thanh tịnh hay không thanh tịnh, và có đúng pháp hay không đúng pháp!

    Phật giáo Trung Quốc, từ đời vua nhà Hán cảm mộng thấy sắc thân Như Lai, đến lúc hai tôn giả Mã Thắng, Trúc Pháp Lan sang truyền pháp, vẫn chưa đủ mười vị giới sư, nên chẳng có thể truyền giới cụ túc, nhưng chúng xuất gia được cạo tóc như các đạo sĩ, lại được đắp mạn y, cùng giữ năm giới và mười giới. Đến đời Tào Ngụy Gia Bình năm thứ hai (250), pháp sư Đàm Ma Ca La dịch quyển Tăng Kỳ Giới Bổn, rồi bắt đầu hành pháp truyền giới. Sa môn Châu Sĩ Hành đầu tiên thọ giới cụ túc tại nước Tàu. Kế đến, vua Lương Võ Đế thỉnh các pháp sư truyền giới cụ túc. Công khanh, thái tử, đạo tục, thọ giới Bồ Tát có đến bốn mươi tám ngàn người. Đời Đường, luật sư Đạo Tuyên, tại chùa Tịnh Nghiệp, kiến lập Thạch Giới Đàn, truyền giới cụ túc cho sa môn Nhạc Độc, y theo quyển Giới Đàn Đồ Kinh.

    Xác thân nát _ Thế giới mất _ Nguyện vẫn còn.

  4. #124
    NỤ Avatar của nguoi ao lam
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    885
    Thanks
    487
    Thanked 474 Times in 127 Posts
    PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂN
    Phần 6 _ XXII. Thiền thất khai thị lần thứ hai
    __________________________________________________ ______________________________________


    Vua Tống Chân Tông (998-1022) ban chiếu chỉ lập đàn truyền giới tại chùa Sùng Thắng, được gọi là Giới Đàn Cam Lộ. Từ đó, trong nước có bảy mươi hai nơi đồng lập giới đàn. Hoàng đế lập giới đàn, nên người thọ giới phải trúng tuyển khảo hạch. Giới tử đầu tiên thọ giới Sa Di. Sa Di là tiếng Phạn, dịch qua tiếng Tàu là Hưu Từ, tức ngưng ác hành từ. Bảy tuổi cho đến mười ba tuổi, gọi là Sa Di đuổi quạ. Lúc đầu, có thiếu nhi cầu xuất gia, nhưng ngài A Nan không dám thế độ. Do đó, Phật bảo:

    - Nếu đuổi được quạ thì cho phép xuất gia.

    Từ mười bốn đến mười chín tuổi, được gọi là Ứng Pháp Sa Di, tức chánh hạnh và hợp với địa vị của Sa Di. Kế đến, phải y theo giới sư điều huấn thuần thục trong năm năm rồi mới được thọ giới cụ túc. Hai mươi tuổi đến bảy mươi tuổi, được gọi là Danh Tự Sa Di. Tuổi tác này, vốn hợp với Tăng vị, nhưng do duyên chưa đủ, nên phải làm Sa Di. Người đủ hai mươi tuổi cùng có tư cách nghiêm chỉnh, mới được thọ giới tỳ kheo. Nếu chưa đủ hai mươi tuổi mà muốn thọ giới cụ túc, thì Phật dạy rằng kể từ ngày ra đời, vào mỗi năm nhuần lấy ra một tháng, rồi trong tháng đó lại lấy ra một ngày, bổ túc trợ vào để thành hai mươi tuổi. Xưa kia, rất nhiều chư vị Tổ Sư, chưa đủ niên lạp tuổi tác mà vẫn được thọ giới cụ túc.

    Từ đời Thanh đến nay, các vị Hoàng Đế đa số là chư Bồ Tát ứng thế, như vua Thuận Trị xuất gia, vua Khang Hy và Ung Chánh thọ giới Bồ Tát. Nhờ Hoàng Đế mở phương tiện, Tăng sĩ không cần trải qua kỳ thi khảo hạch, vẫn được thọ giới. Nào ngờ, vì lòng từ bi của các vị Hoàng Đế, khiến Tăng chúng trở nên tệ xấu. Xưa kia, các nơi truyền giới rất thận trọng, như chùa Bảo Quang, chùa Chiêu Giác, núi Bảo Hoa, núi Cổ Sơn, Phước Kiến, núi Di Sơn, v.v... Ngày nay, các tùng lâm tự viện lớn nhỏ đều truyền giới. Ngoài ra, tại các nơi như Thành hoàng Thổ địa, hội quán, chợ búa, đều truyền giới cả. Vì vậy, trong bài Tam Đàn Chánh Phạm, Hậu Bạt, tôi viết: "Ngày nay, xảy ra nạn viết lời mời mọc khắp chợ búa, để phiếm dụ, mê hoặc, buôn bán giới sư, chẳng hề tôn trọng giới pháp. Bên dưới mái hiên, đền miếu dâm loạn, khu cắt mổ máu thịt, bậy bạ lập đàn truyền giới. Mê hoặc mình người, trộm danh bán lợi, làm như chỗ mậu dịch thương trường. Đàn giới vốn là đất Phật thanh tịnh, nay biến thành hang hố địa ngục".

    Gần đây, tờ Nguyệt San Hoằng Hóa, chỉ trích nặng nề về sự lạm dụng truyền giới. Những lời như thế, sao lại không chịu lắng nghe!

    Khi xưa, mỗi năm tôi cũng lập đàn truyền giới, nên tạo nghiệp địa ngục không ít. Song, tôi bất đắc dĩ phải làm như thế, vì có vài duyên cớ, nhất là mong muốn vãn hồi hậu tấn (người lớn nghỉ ngơi; người nhỏ tiến bước). Lúc vừa đến núi Kê Túc, tỉnh Vân Nam, chẳng thấy bóng một tăng sĩ nào. Nhân vì tăng sĩ ở đó, ăn mặc giống như người thế tục, nên khó lòng nhận ra. Họ chẳng hề bàn về việc tu hành, sửa chũa chùa chiền, hay dâng hương cúng Phật, mà chỉ lo thụ hưởng tài sản chùa chiền tự viện, lại dùng tiền để mua chuộc bọn đảng phái long đầu, hầu mong giữ lợi. Thấy những việc tệ hại như thế, tôi mới phát tâm chỉnh lý đạo phong núi Kê Túc, bằng cách khai mở thiền đường, tọa hương, đả thiền thất, giảng Kinh thuyết pháp, nhưng chẳng ai màng đến. Sau này, tôi thay đổi cách thức, tức hành truyền giới pháp.

    Trước kia, Tăng sĩ trên núi chưa hề lập đàn truyền giới, nên tôi muốn dùng giới pháp để chấn chỉnh chánh giáo, trùng hưng đạo tràng. Do đó, tôi lập giới đàn đầu tiên trên núi, gia hạn trong năm mươi ba ngày. Lần ấy, có hơn tám trăm vị đến thọ giới. Từ đó, Tăng sĩ trên núi mới biết giới luật rõ ràng. Nhờ khuyên lơn khuyến khích, dần dần họ qua lại với tôi. Từ từ, họ biết việc kết duyên, mở chùa tiếp độ tăng chúng, mặc y ca sa, niệm Phật tụng kinh, là những điều rất cần thiết. Những thói quen tật xấu như ăn thịt, ăn hành tỏi, uống rượu, hút thuốc lần hồi được sửa đổi. Đó là kết quả của việc mượn giới pháp để chấn chỉnh những hiện tượng suy đồi của Phật giáo tại tỉnh Vân Nam.

    Xưa kia, nơi núi Cổ Sơn, giới kỳ trong vòng tám ngày, chỉ có các tỳ kheo cùng các cư sĩ nam được lên chánh điện, chứ không có nữ chúng. Các nơi xa gần, chỉ việc gởi tiền đến cho vị giới sư, bèn được giới điệp. Người tại gia đắp y bảy điều, rồi dám tự xưng là Tỳ kheo, Tỳ kheo ny. Đó gọi là mua bán giới điệp. Tôi đến Cổ Sơn, cải đổi giới kỳ thành năm mươi ba ngày. Việc buôn bán giới điệp, không cạo râu tóc, đắp giới y sai lầm, cùng những phong tục tập quán xấu xa, đều được chấn chỉnh. Có rất nhiều kẻ phản đối việc này, bằng cách gây bạo động, đốt nhà giết người. Đó phải chăng gieo nhân thiện, nhưng lại chiêu quả xấu? Cuối cùng, tôi thỉnh pháp sư Từ Bàn lên núi, lập học viện Giới luật. Tự Ngài chân thật nghiêm thủ giới luật cẩn trọng, nên khiến tôi rất cảm phục.

    Xác thân nát _ Thế giới mất _ Nguyện vẫn còn.

  5. #125
    NỤ Avatar của nguoi ao lam
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    885
    Thanks
    487
    Thanked 474 Times in 127 Posts
    PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂN
    Phần 6 _ XXII. Thiền thất khai thị lần thứ hai
    __________________________________________________ ______________________________________


    Sự hành đạo nói chung đều do chính mình, chứ không phải do sự biểu diễn bên ngoài. Xưa nay, theo giới luật, trong mỗi đàn của tam đàn đại giới, các vị truyền giới sư phải học hết mọi cách thức trong vòng ba năm, rồi mới được truyền giới.

    Sau khi Phật nhập Niết Bàn, Thượng Tọa Bộ phân thành mười tám phái, nên việc truyền giới rất phức tạp. Lúc còn tại thế, đức Phật cũng lập phương tiện, cho những vị chưa đủ hai mươi tuổi, được thọ giới cụ túc. Chư Tổ Sư sau này, thọ giới cụ túc, dưới hai mươi tuổi cũng không ít.

    Nếu có tội mà không sám hối, cho dầu sống đến trăm tuổi vẫn uổng phí. Tôi thường thấy rất nhiều các lão pháp sư, không chịu giữ giới luật. Việc này, ai ai cũng đều biết đến. Các vị sơ phát tâm tu đạo, phải cẩn trọng hộ giới. Vì cần cầu hiểu rõ sự lý, phải siêng năng học tập Kinh điển Đại Thừa và Tiểu Thừa. Nơi Giác địa thanh tịnh, tuy không nhiễm một mảy trần, nhưng trong tất cả Phật sự, chẳng xả một pháp.

    Vừa xuất gia, phải thọ mười giới Sa Di; trong mười giới, bốn giới đầu là tánh giới, còn sáu giới sau là giá giới. Kế đến, thọ giới Tỳ kheo, tức hai trăm năm mươi giới. Ni chúng có ba trăm bốn mươi tám giới. Những giới pháp này, không ngoài bốn oai nghi đi đứng nằm ngồi cùng bảy chi phần thân thể. Tiến lên một bước, thọ giới Bồ Tát. Giới Bồ Tát có tam tụ tịnh giới.

    Thứ nhất, nhiếp luật nghi giới, tức không có việc ác nào mà không đoạn trừ, nghĩa là luôn khởi đạo hạnh chân chánh, cũng chính là gieo nhân đoạn đức, để tu thành tựu Pháp Thân.

    Thứ hai, nhiếp thiện pháp giới, tức thường tích tụ muôn hạnh lành, hỗ trợ đạo hạnh, chính là nhân trí đức, để tu thành tựu Báo Thân.

    Thứ ba, nhiếp chúng sanh giới, tức cứu độ hết thảy chúng sanh, phát tâm chẳng trụ Niết Bàn, chính là nhân ân đức, để tu thành Hóa Thân.

    Việc trì giới giữa Đại thừa và Tiểu thừa đều khác biệt. Tiểu thừa chế phục thân không cho hành. Đại thừa chế phục tâm không cho khởi. Nơi ba ngàn oai nghi, tám muôn tế hạnh, Tiểu Thừa chế phục thân không cho phạm. Đối với Đại Thừa, vừa khởi vọng tưởng thì đã phạm giới rồi. Giảng giải pháp Đại Thừa rất dễ, nhưng hành lại rất khó.

    Ngài Xá Lợi Phất lúc còn tu hành nơi nhân địa, có phát tâm tu hạnh Bồ Tát, thệ nguyện nhập thế cứu độ chúng sanh, không muốn tự tu giải thoát cho chính mình, nên rời am tranh, đến ngã ba đường, ngồi tọa thiền. Hôm nọ, thấy một cô gái vừa đi vừa khóc, Ngài liền bước đến hỏi han. Cô ta nói:

    - Mẹ của con bị bịnh nặng. Thầy thuốc bảo phải đi tìm mắt của người còn sống, đem về làm thuốc, thì mới trị được bịnh. Con cảm thấy việc này quá khó, nên thất vọng. Do đó, con thường buồn rầu đau khổ.

    Ngài bảo:

    - Cô hãy an tâm! Hôm nay, tôi sẽ cho cô một con mắt.

    - Đa tạ! Đa tạ! Ngài thật là Bồ Tát cứu khổ cứu nạn.

    Ngài Xá Lợi Phất liền lấy tay móc mắt bên phải ra, cho cô kia. Cô ta bèn nói:

    - Không phải! Thầy thuốc bảo phải lấy con mắt bên trái kia!

    Ngài Xá Lợi Phất lại miễn cưỡng móc ra mắt bên trái, rồi đưa cho cô ta. Cô ta cầm con mắt trái của Ngài bảo:

    - Con mắt này hôi quá, không thể dùng được!

    Nói xong, cô ta nhổ bọt lên con mắt đó, rồi liệng xuống đất. Vì cảm thấy chúng sanh thật khó độ, từ đó ngài Xá Lợi Phất thối tâm Bồ Đề. Quý vị nhìn xem, tu đạo Bồ Tát thật rất khó!

    Lúc thọ giới tỳ kheo, hòa thượng giới sư bảo:

    - Quý vị có phải là bậc đại trượng phu không?

    Tân giới tử thưa:

    - Chúng con chính là bậc trượng phu!

    Lúc thọ giới Bồ Tát, hòa thượng truyền giới hỏi:

    - Quý vị có phải là bậc Bồ Tát không?

    Tân giới tử đáp:

    - Thưa! Chính là Bồ Tát.

    - Quý vị đã là Bồ Tát. Vậy phát tâm Bồ Đề chưa?

    - Thưa! Đã phát tâm Bồ Đề rồi.

    Nói được thì phải làm được. Chân chưa bước đến nơi thật địa, bị người chửi một câu bèn tức giận, xả không nổi, khiến khởi tâm động niệm, nên bị đọa lạc. Sau khi thọ tam đàn đại giới xong, hãy tự suy nghĩ kiểm nghiệm xem coi, hình tướng có giống Sa Di, Tỳ Kheo, Bồ Tát không?

    Xác thân nát _ Thế giới mất _ Nguyện vẫn còn.

  6. #126
    NỤ Avatar của nguoi ao lam
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    885
    Thanks
    487
    Thanked 474 Times in 127 Posts
    PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂN
    Phần 6 _ XXII. Thiền thất khai thị lần thứ hai
    __________________________________________________ ______________________________________


    19/ Ngày hai mươi lăm tháng tư

    Hôm nay, khi đến trai đường dùng cơm, tôi nhận thấy có vài người, càng ăn lâu chừng nào thì tâm càng sanh tán loạn chừng đó. Lúc ăn cơm, rất dễ khởi tâm tán loạn, nhưng cũng là dịp đối trị tâm. Người đời không biết thân người là quý báu. Kinh Đại Niết Bàn nói: "Sanh ra đời, làm người là việc khó, nhưng gặp được Phật lại càng khó hơn, như rùa mù tìm gặp bọng cây trong biển cả".

    Kinh Tạp A Hàm nói: "Trong biển rộng, có một con rùa mù, thọ mạng vô lượng kiếp, một trăm năm trồi lên mặt biển một lần. Một bọng cây nọ, chỉ có một lỗ hổng, theo gió trôi nổi khắp nơi trên biển cả. Rùa mù vừa xuất hiện, lại vớt được bọng cây này".

    Phàm phu lưu chuyển trong biển cả năm đường, nhưng lại được thân người; việc này khó khăn như rùa mù gặp bọng cây đó.

    Luận Hiển Dương nói: "Một mặt trời mặt trăng hiện ra, được gọi là một thế giới. Một thế giới có chín núi, tám biển và bốn châu".

    Chín núi tức là núi Tu Di, núi Trì Song, núi Trì Mục, núi Đam Mộc, núi Thiện Kiến, núi Mã Nhĩ, núi Chướng Ngại, núi Trì Địa, núi tiểu Thiết Vi. Tám biển tức là bảy biển Hương Thủy cùng một biển đại Hàm Thủy.

    Chính giữa hai núi Tu Di và núi Trì Song, cho đến chính giữa núi Chướng Ngại và núi Trì Địa, có một biển Hương Hải. Giữa tám núi, cũng có bảy biển Hương Hải. Cuối cùng, chính giữa núi Trì Địa và núi Tiểu Thiết Vi, có biển đại Hàm Thủy. Giữa biển này có bốn châu tại Đông Tây Nam Bắc. Rùa mù ở trong biển đại Hàm Thủy, trăm năm mới ngoi đầu lên, vớt được bọng cây.

    Tứ Giáo Nghĩa nói: "Lúc còn tại nhân địa, hành ngũ thường, ngũ giới, cùng trung phẩm của mười điều thiện, thì được làm thân người".

    Bắc châu trong bốn châu, chẳng có quý báu hèn hạ. Ba châu còn lại, có vua Chuyển Luân, Tiêu Tán, Bá Liêu, Thai Nô, Thụ Tử, Bộc Lệ, Cơ Thiếp. Tất cả đều do tu năm giới và mười việc lành, mà cảm thọ quả báo tốt. Song, vì hành theo từng bậc thượng trung hạ phẩm của năm giới và mười điều lành, nên mới có kẻ sang giàu, người nghèo hèn khác nhau.

    Hôm nay, chúng ta đã có thân người, lại được nghe Phật pháp, phải phụng hành theo chánh giáo, cùng muôn pháp thức, và y theo giới định huệ để hàng phục vọng tâm. Chiếu theo giới luật, từ sáng đến tối, phải trì 'Tỳ Ni Nhật Dụng', tức năm mươi ba bài kệ chú ngắn.

    Phật chế:

    - Chư tỳ kheo, khi thọ trai, phải hành năm cách quán. Tâm tán loạn, nói lời tạp nhạp, của tín thí thọ khó tiêu.

    Đại chúng, nghe tiếng khánh, phải khởi chánh niệm. Thầy Duy Na sau khi tụng bài Kinh cúng dường xong, liền đọc bài kệ đó. Chư tỳ kheo, khi ăn cơm, phải nên hành năm cách quán. Thứ nhất, xem xét công đức mình ít hay nhiều, có xứng để thọ bát cơm này không. (Biết bao giọt mồ hôi, nước mắt đổ xuống, mới đem lại bát cơm). Thứ hai, xem đức hạnh mình như thế nào, có đủ đức để thọ sự cúng dường này không. (Nếu đức hạnh khiếm khuyết, thì không thể thọ sự cúng dường này dễ dàng. Ngược lại, thì có thể thọ nhận). Thứ ba, phải phòng ngừa tâm phóng túng, mà tham vốn là gốc. (Phải xa rời ba tâm tham, sân, si). Thứ tư, thức ăn này chính là liều thuốc, để chữa trị thân gầy mòn. (Vì bịnh đói khát, nên phải dùng thức ăn này như liều thuốc). Thứ năm, vì thành tựu đạo nghiệp, nên thọ thức ăn này. (Nếu không ăn để nuôi dưỡng thân mạng, thì đạo nghiệp khó thành.)

    Nếu hiểu rõ năm cách quán thì có thể tiêu hóa vàng dễ dàng. Ba tâm tham sân si chưa đoạn thì một giọt nước cũng khó mà tiêu. Phải nên thường khởi tâm hổ thẹn, chớ để mất chánh niệm. Nghe âm thanh liền ngộ đạo, và mắt thấy sắc liền sáng tâm. Chớ nên phóng tâm ra ngoài tìm cầu. Khi giữ chánh niệm, nghe một tiếng khánh thì niệm một danh hiệu Phật. Chớ nên bàn tán nhân ngã thị phi, nói lời tạp nhạp, khiến tâm tán loạn. Một hạt cơm của thí chủ nặng bằng núi Tu Di. Nếu không tự liễu ngộ đạo, kiếp sau phải "mang lông đội sừng".

    Tu nhân cảm quả như trồng lúa. Nước trí thấm nhuần đất tâm như nước nuôi dưỡng lúa mạ. Nếu tâm luôn trụ nơi đạo thì nơi nơi đều là đạo tràng. Người dụng tâm hay thì ruộng tâm không trưởng dưỡng cỏ vô minh, và nơi nơi thường khai hoa trí huệ. Đã được thân người và đã nghe Phật pháp, phải nên nỗ lực tu hành, chớ để ngày tháng trôi qua vô ích.

    Xác thân nát _ Thế giới mất _ Nguyện vẫn còn.

  7. #127
    NỤ Avatar của nguoi ao lam
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    885
    Thanks
    487
    Thanked 474 Times in 127 Posts
    PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂN
    Phần 6 _ XXII. Thiền thất khai thị lần thứ hai
    __________________________________________________ ______________________________________


    20/ Ngày hai mươi sáu tháng tư

    Sống trong ba cõi, chịu luân hồi nơi sáu đường. Trong sáu đường, có ba đường lành và ba đường ác. Trời, Người, A Tu La là ba đường lành. Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh là ba đường ác. Mỗi loài trong sáu đường, đều có muôn loại phẩm vị, tôn quý ti tiện, khác nhau. Kinh nói: "Chư Thiên, tuy cùng dùng thức ăn, nhưng tùy theo phước đức của mỗi Thiên chúng, mà màu sắc thức ăn có khác nhau. Bậc thượng thấy thức ăn màu trắng. Bậc trung thấy thức ăn màu vàng. Bậc hạ thấy thức ăn màu đỏ" .

    Chư Thiên cõi Dục giới vẫn còn dâm dục. Trời Tứ Thiên Vương dâm dục như người thế gian. Chư Thiên cõi trời Đao Lợi chỉ ôm nhau âu yếm, liền thành sự dâm. Tại cõi trời Dạ Ma, chư Thiên nắm tay nhau, bèn thành sự dâm. Chư Thiên cõi trời Đâu Suất mỉm cười với nhau, thì thành sự dâm. Chư Thiên cõi trời Hóa Lạc ngó nhìn nhau, thì thành sự dâm. Chư Thiên cõi trời Tha Hóa vừa nháy mắt nhau, thì thành sự dâm. Kinh Lăng Nghiêm nói: "Sáu cõi Trời như thế, hình tướng tuy không động, nhưng tâm đã giao hợp. Vì vậy, nên gọi là Dục giới".

    Cõi Sắc giới không có dâm dục, nhưng vẫn còn sắc thân. Kinh Lăng Nghiêm nói: "Chư Thiên ở mười tám cõi Trời, hành hạnh đơn độc, không giao hợp, nhưng chưa hết phiền lụy vì sắc thân, tức sắc thể vi tế, nên gọi là cõi Sắc giới. Tuy không có sắc thể thô kệch, nhưng vẫn còn sắc tướng vi tế".

    Kinh Tịnh Danh Lưu bảo: "Nếu không hiểu giáo nghĩa, thì cho rằng cõi Vô Sắc không có sắc tướng. Nếu hiểu giáo nghĩa, biết cõi Vô Sắc vẫn còn có sắc tướng".

    Kinh Niết Bàn nói: "Sắc tướng của cõi Vô Sắc, Thanh Văn Duyên Giác chẳng biết được".

    Kinh Lăng Nghiêm thuyết: "Nơi bốn cõi Trời Không Thiền, thân tâm diệt tận, nhưng định tánh vẫn hiện tiền, và không có sắc tướng của nghiệp quả. Từ đó cho đến lúc mạng chung, được gọi là sống trong cõi Vô Sắc".

    Luân hồi trong ba cõi, dâm dục là căn bản. Qua lại sáu đường, ái dục là cội gốc. Có dâm dục, tức có sanh tử. Đoạn dâm dục, tức cắt đứt dòng sanh tử. Ba cõi sáu đường, thân lượng thọ mạng, dài ngắn không đồng. Chư Thiên cõi trời phi phi tưởng xứ, thọ mạng dài cả tám mươi ngàn đại kiếp, mà vẫn chưa đoạn dứt luân hồi sanh tử. Ba cõi không an, giống như nhà lửa. Chúng ta nếu muốn vượt khởi nhà lửa thì phải dụng công tu hành cho hay.

    Xác thân nát _ Thế giới mất _ Nguyện vẫn còn.

  8. #128
    NỤ Avatar của nguoi ao lam
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    885
    Thanks
    487
    Thanked 474 Times in 127 Posts
    PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂN
    Phần 6 _ XXII. Thiền thất khai thị lần thứ hai
    __________________________________________________ ______________________________________


    21/ Ngày hai mươi bảy tháng tư

    Hôm nay, tôi có việc muốn phó chúc cho quý vị. Mấy ngày gần đây, tín chúng các nơi đến hỏi rằng chùa mình có truyền giới không. Mọi người nên biết, chỗ tôi ở chỉ là am tranh. Vì quý vị có duyên, nên cùng trú một nơi. Hiện tại, phải hưởng ứng lời hiệu triệu của chánh phủ, tức tự làm tự ăn. Nếu quá nhiều người, việc cung ứng thức ăn không đủ, vì mua lương thực không được. Quý vị chớ đưa tin ra ngoài, bảo rằng nơi đây có truyền giới, vì chùa này không thể chứa nhiều người. Tân giới tử của bổn tự, yêu cầu tôi ra thuyết giới. Nhận thấy thời tiết nhân duyên, có thể thuyết giới phương tiện, nhưng không thể hội tập các tân giới tử ở những nơi khác đến. Nếu quá nhiều người, nơi ăn chốn ở sẽ thành vấn đề lớn. Hiện tại, chúng ta rất bận rộn vì công việc đồng áng, như phải gieo lúa, cùng bao việc khác. Vì ngày ngày phải ăn uống, nếu không dự bị thì không có đủ lương thực để dùng. Loài chuột còn biết dự trữ lương thực. Chúng ta cũng phải tính toán, tồn trữ lương khô. Thời giờ trôi mau, bỗng chốc đã qua mùa hè. Cuối Hè, ban ngày từ từ ngắn dần. Ban đêm lại từ từ dài thêm. Khí dương giảm bớt.

    Thân người cùng trời đất hòa hợp với nhau. Thân tâm động tĩnh, đi đứng nằm ngồi, phải tùy thời mà điều phục. Trong động có tĩnh. Trong tĩnh có động. Trong động chớ để động chuyển. Trong tĩnh chớ để tĩnh chuyển. Định là thể. Huệ là dụng. Chân đế là tĩnh. Tục đế là động. Hai đế đều viên dung vô ngại, và đồng với khí chất trời đất. Tu hành học đạo, không ngoài việc điều phục động tĩnh. Động tĩnh nếu như pháp thì tâm tùy cảnh sẽ được an lạc. Nếu động tĩnh chẳng như pháp thì sẽ bị cảnh chuyển. Ngày vui rất ngắn, mà ngày buồn lại rất dài. Thời gian dài ngắn, đều do tâm tạo. Tất cả khổ vui, đều tùy theo cảnh chuyển.

    Xưa kia, trên núi Cổ Sơn, có một vị Tăng bị bịnh ghẻ lở, khiến ai ai cũng ghê tởm lánh xa. Thấy vậy, một Thiền sư trẻ, tuổi chỉ ngoài hai mươi, khởi tâm thương hại, thường ân cần giúp đỡ chăm sóc vị Tăng bị bịnh kia. Khỏe mạnh trở lại, vị bịnh Tăng bèn cáo từ thiền sư trẻ:

    - Thật đa tạ tấm lòng từ bi tử tế của Thầy. Nhờ Thầy ân cần giúp đỡ, bịnh đã lành lặn, nếu không thì tôi đã chết lâu rồi. Xin thỉnh Thầy đến ngôi chùa nhỏ của tôi.

    Thiền sư trẻ đáp:

    - Tôi đi tham bái núi Ngũ Đài, rồi trở về sẽ ghé thăm Thầy.

    Tham bái núi Ngũ Đài xong, thiền sư trẻ trở lại, tìm kiếm ngôi chùa của vị Tăng bịnh thuở xưa. Vừa đến chùa, thiền sư trẻ đã thấy vị bịnh Tăng kia đang đứng trước cửa nghinh đón, bảo:

    - Tôi đợi đã lâu, mà nay Thầy mới trở về!

    Nói xong, liền mời thiền sư trẻ vào chùa uống trà. Thiền sư trẻ bảo:

    - Hôm nay, trên đường đi, tôi chưa ăn uống gì cả.

    Vị bịnh tăng bảo:

    - Xin Thầy chờ một chút. Lát nữa tôi sẽ mang thức ăn ra.

    Nói xong, vị bịnh Tăng dẫn trâu ra đồng cày ruộng, nhổ mạ, rồi đem về chùa bầm nhuyễn, hòa cùng với bột gạo, nấu thành cháo. Trong khoảnh khắc, thức ăn được dọn lên. Ăn xong, thiền sư trẻ liền cáo từ, nhưng vị bịnh Tăng nài nỉ, lưu giữ Thầy ở lại ngủ qua đêm. Hôm sau, trời hừng sáng, thiền sư trẻ liền rời khỏi chùa, rồi xuống núi, để trở về chùa mình. Tuy thiền sư trẻ chỉ ngủ một đêm tại am tranh của vị bịnh Tăng, mà thời thế ở nhân gian đã đổi thay; triều đại mới đã được dựng lập, trải qua nhiều năm tháng.

    Ngày ngày gặp những cảnh khổ não, chúng ta khó lòng vượt qua. Thiền sư trẻ kia lên núi trú qua một đêm, dùng một buổi cơm rồi xuống núi, thì đã thay đổi thời đại, qua bao năm tháng.

    Sa Môn Huệ Thường ở núi La Phù, nhân đi hái trà mà vào hang núi, chợt thấy một tấm bảng bằng vàng kim, đề chữ 'La Hán Thánh Tự', rồi ở lại trong đó ba ngày mới trở ra. Lúc trở về chùa, ở cõi nhân gian đã trải qua năm năm.

    Quý vị có thấy thời gian dài ngắn đều do tâm tạo không? Chỉ cần quý vị tu hành, định huệ viên dung, thông đạt hai đế, thâm nhập Tam muội, chẳng sanh một niệm, thì sẽ thấy vô biên cảnh giới, không bị hạn cuộc chút nào. Xưa nay, người người đều không rời tâm này. Đi đứng nằm ngồi, chớ phóng tâm ra ngoài cầu pháp. Ngày ngày chớ để cảnh chuyển. Dầu cho kẻ khác nắng đi lạnh đến, vẫn không can hệ gì với mình. Như như bất động, niệm niệm vô sanh, không để cảnh chuyển, tức không lãng phí thời gian tu hành.

    Xác thân nát _ Thế giới mất _ Nguyện vẫn còn.

  9. #129
    NỤ Avatar của nguoi ao lam
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    885
    Thanks
    487
    Thanked 474 Times in 127 Posts
    PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂN
    Phần 6 _ XXII. Thiền thất khai thị lần thứ hai
    __________________________________________________ ______________________________________


    22/ Ngày hai mươi tám tháng tư

    Quý vị đồng tham học đến đây xin chớ làm khách, hãy dùng trực tâm vấn đạo. Quy củ vấn đáp Phật pháp nơi các tùng lâm tự viện là phải cung kính đảnh lễ, rồi quỳ xuống thỉnh chư Hòa thượng khai thị. Nơi đây là am tranh, không cần phải theo nghi thức như thế. Vì sao? Hiện tại, từ sáng đến tối, cả ngày tôi mãi sống trong phiền não. Quý vị càng làm nghi lễ nhiều chừng nào, thì tôi càng bị phiền lụy bấy nhiêu. Quý vị hãy tùy tiện tùy thời hỏi han, như nông dân dẫn trâu cày ruộng, đẩy cày tới lui. Ví dụ, khi bàn về đèn dầu, nếu phải dùng dầu hương, thì gọi đó là dầu hương. Nếu là dầu tây, thì gọi đó là dầu tây. Quý vị nếu dụng công niệm Phật, thì đàm luận về pháp môn niệm Phật. Nếu tham thiền thì bàn về pháp tham thiền. Tu pháp gì thì luận bàn về pháp đó, tự nhiên không vướng mắc. Nếu biết tôi không hiểu rõ điều gì, xin quý vị hãy từ bi chỉ dạy.

    Các pháp xưa nay vốn dùng để cắt đứt sanh tử. Tham thiền, tụng kinh, niệm Phật, lễ bái, cùng các pháp môn khác, đều tùy theo căn cơ mà thuyết giáo. Quý vị có căn cơ đến đâu thì chúng ta sẽ cùng đàm luận đến đó.

    "Phật thuyết tất cả pháp, vì muốn độ tất cả chúng sanh. Không có tất cả tâm, sao lại dùng tất cả pháp?"

    Ví như một toa thuốc, được phân chia đúng lượng, lúc uống vào thì đổ mồ hôi, khiến lành bịnh. Hết bịnh rồi, thì chẳng cần dùng thuốc nữa. Người xưa bảo:

    - Tận hết tâm phàm, chẳng có chư Thánh giải thoát.

    Diệt tận tâm phàm phu, ngay đó chính là Phật, chớ hướng ngoại truy cầu. Nếu hướng ngoại truy cầu, tức là Ngoại đạo. Ngoài tâm không có một vật vì tự tâm chính là Phật. Tâm phàm phu, tức tâm chấp trước, tâm thường sanh uất khí, tâm hoan hỷ, tâm khen ngợi hủy báng, tâm tham sắc, tham tiền, tham ăn ngon mặc đẹp, làm biếng, khởi vô minh, không lên chánh điện tụng Kinh, cùng bao tập khí xấu xa, và thậm chí mong cầu thành Phật, v.v... Nếu quên đi cả Phàm lẫn Thánh, nơi mọi chốn đều như như bất động; không hướng ngoại tìm cầu, thì sẽ thấy tự tâm chính là Phật. Cắt ái từ thân, dùng tham thiền niệm Phật, để trừ khử tâm phàm. Dùng độc trị độc; bịnh lành thì không cần thuốc.

    Quý vị đồng tham học! Thường nói nhiều thì vọng tưởng càng nhiều. Song, nếu không khẩn thành tu thiền hoặc niệm Phật thì chẳng biết mình có vọng tưởng. Lúc dụng công, nhìn lại mới biết mình có quá nhiều vọng tưởng. Nhận diện ra chúng, quý vị chớ để ý làm chi, chỉ như như bất động. Nếu khởi tâm động niệm, tức liền thấy Ma. Công phu miệng tụng tâm tư duy ngày một thâm sâu, như nước chảy đá mòn, thì tự nhiên tất cả sẽ quy về một mối. Tham thiền có thể ngộ đạo. Quên mình niệm Phật cũng có thể ngộ đạo. Một niệm không sanh, liền thừa nhận bản tâm lập tức. Phải dùng lý này mà dụng công. Hy vọng, nơi đỉnh cột trụ trăm trượng, hãy tiến thêm một bước.

    Xác thân nát _ Thế giới mất _ Nguyện vẫn còn.

  10. #130
    NỤ Avatar của nguoi ao lam
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    885
    Thanks
    487
    Thanked 474 Times in 127 Posts
    PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂN
    Phần 7
    __________________________________________________ ______________________________________


    PHẦN VII


    23/ Ngày hai mươi chín tháng tư

    Giảng về việc tu đạo, chư Phật chư Bồ Tát chỉ bảo dẹp trừ tập khí. Còn tập khí tức còn làm chúng sanh. Hết tập khí tức làm Thánh hiền. Diệu dụng của chư Thánh hiền, biết rõ phiền não tức Bồ Đề. Nếu không nhận thức rõ, thì Bồ Đề tức là phiền não. Hoán chuyển phiền não và Bồ Đề như xoay trở bàn tay. Tuy vậy, nói thì dễ nhưng làm lại rất khó. Thiền sư Điểu Khòa nói:

    - Không làm các việc ác. Luôn hành những điều lành. Đứa nhỏ ba tuổi có thể hiểu lý này, nhưng lão già tám mươi hành chẳng được.

    Hư Vân tôi hổ thẹn muôn phần, vì tập khí thâm trọng, không thể xoay đầu nhìn lại chính mình, cùng không thể xả bỏ chấp trước. Lúc đến am tranh này, tôi muốn lang thang ngang dọc; không đoái hoài đến người, chỉ thích đi lên ngàn đỉnh núi. Việc của thường trụ, không cần đến tôi. Nếu lo lắng nhiều việc, tức làm người bận rộn. Tôi đã từng quản lý hai ngàn nhà, tập khí chấp trước khó trừ khó xả. Nhìn sự việc mà chẳng thấu suốt thì thiên lệch vào ái trước.

    Sáng nay, thầy Tri sự bảo mọi người không cần ra đồng làm việc, mà tôi lại bảo phải làm. Có người nói rằng tôi rất quan liêu phong kiến. Dĩ nhiên, thầy Tri sự có lý lẽ riêng; thầy bảo rằng đại chúng làm lụng quá cực nhọc, nên cần nghỉ ngơi đôi chút. Song, chánh phủ hiệu triệu, kêu gọi chúng ta phải tự nỗ lực làm ăn. Chúng ta đã vay mượn chánh phủ hàng trăm ký lúa. Sao không cố gắng hưởng ứng lời kêu gọi, tự cố gắng trồng trọt? Nhận biết mọi người đều ăn uống thiếu thốn khổ cực, và sợ giữa năm không mua đủ lúa thóc, nên tôi phải tìm cách xoay sở. Nhân vì mỗi ngày, mỗi người đáng lý ra phải được mua một ký rưởi gạo. Song, hiện tại mỗi người bị giảm bớt ba lạng. Tôi nhận thấy rằng lương thực của chúng ta chóng bị giảm bớt. Gạo ít mà không tăng gia sản xuất thì làm sao đủ ăn! Hôm nay nghỉ ngơi. Ngày mai lại nghỉ ngơi.

    Ngày kế, nếu trời mưa, cũng lại nghỉ ngơi. Ba ngày liên tiếp, nghỉ ngơi không làm ruộng, thì sao trồng trọt sản xuất được? Vì vậy, quý vị có bảo tôi phong kiến thì tôi là phong kiến. Song, trong phong kiến tôi chẳng có phong kiến, và trong chuyên chế chẳng có chuyên chế, nên so với cường quyền vô công lý thì không đồng. Hiện nay, mùa Xuân mưa xuống khắp đồng. Nếu không thừa dịp này mà chịu cực khổ chút ít, xin hỏi giữa năm lấy gì mà ăn? Tuy nói là khổ, nhưng so với dân làng dưới núi, chúng ta làm việc rất nhẹ nhàng thảnh thơi. Dân làng mỗi ngày phụ giúp chúng ta cấy lúa để có gạo ăn. Ngày ngày, họ dầm mưa dãi nắng, không dám biếng nhác. Nếu làm biếng một chút thì sợ chúng ta không nhờ đến. Thế nên, họ chịu đựng cực khổ rất nhiều, lại cán đán làm việc rất thông thạo. Chúng ta không cực khổ bằng họ, sao nay lại than van!

    Xác thân nát _ Thế giới mất _ Nguyện vẫn còn.

Thông tin chủ đề

Users Browsing this Thread

Hiện có 1 người đọc bài này. (0 thành viên và 1 khách)

Quyền viết bài

  • Bạn không thể gửi chủ đề mới
  • Bạn không thể gửi trả lời
  • Bạn không thể gửi file đính kèm
  • Bạn không thể sửa bài viết của mình
  •