DIỄN ĐÀN PHẬT PHÁP THỰC HÀNH - Powered by vBulletin




Cùng nhau tu học Phật pháp - Hành trình Chân lý !            Hướng chúng sinh đi, hướng chúng sinh đi, để làm Phật sự không đối đãi.


Tánh Chúng sinh cùng Phật Quốc chỉ một,
Tướng Bồ Đề hóa Liên hoa muôn vạn.

Trang 11/20 ĐầuĐầu ... 910111213 ... CuốiCuối
Hiện kết quả từ 101 tới 110 của 196
  1. #101
    NỤ Avatar của nguoi ao lam
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    885
    Thanks
    487
    Thanked 474 Times in 127 Posts
    PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂN
    Phần 5 _ XXII. Thiền thất khai thị lần thứ hai
    __________________________________________________ ______________________________________


    Đại Sư hỏi:

    - Ông có thể khiến mặt trời mọc ở hướng Tây, lặn ở hướng Đông không?

    - Không thể.

    - Ông có thể lấy đất năm đảnh núi mà kết thành bốn biển không?

    - Không thể.

    - Phật có thể chuyển tất cả tướng Không thành muôn pháp Trí, mà không thể diệt định nghiệp. Phật có thể biết sự việc của chúng sanh cùng tận ức kiếp, mà không thể giáo hóa những kẻ vô duyên. Phật có thể độ vô lượng loài hữu tình mà không thể diệt tận pháp giới chúng sanh. Đó là ba việc mà Phật không thể làm được. Định nghiệp cũng không lâu. Kẻ vô duyên cũng có kỳ. Pháp giới chúng sanh vốn không tăng không giảm. Không ai có thể làm chủ tất cả pháp. Có pháp mà vô chủ, nên gọi là vô pháp. Vô pháp vô chủ, cũng gọi là vô tâm. Nay giải thích về Phật, Ta cũng chẳng có thần thông, chỉ dùng vô tâm mà thông đạt hết muôn pháp.

    - Con thật rất ngu muội, chưa từng được nghe nghĩa không. Đại Sư truyền giới, con vâng giữ phụng hành. Ngày nay, con nguyện muốn báo đáp ân đức từ bi của Đại Sư, nên sẽ hiển hiện chút ít thần thông.

    - Ta quán thân vô vật, quán pháp vô thường, sao cần cầu chi nữa?

    - Nếu Đại Sư cho phép, con sẽ triển chuyển chút ít thần thông, để khiến người đã phát tâm, vừa phát tâm, chưa phát tâm, chẳng có tín tâm, đã có tín tâm, biết được có Phật, có thần có năng lực thần thông, không có năng lực thần thông, có tự nhiên, không có tự nhiên.

    - Không được! Không được!

    - Phật cũng sử dụng thần thông để truyền pháp, sao Đại Sư chẳng làm theo? Xin Đại Sư rũ lòng dạy bảo.

    Đại Sư bất đắc dĩ bảo:

    - Chùa Đông Nham có chướng ngại là cỏ dại rậm rạp mà chẳng có cây cối to lớn; đằng sau lưng chùa lại không có chỗ tựa. Ngọn núi phía Bắc có rất nhiều cây cối. Ông có thể di chuyển cây cối bên hướng Bắc qua đỉnh núi phía Đông không?

    Thần thưa:

    - Xin vâng mạng! Giữa khuya, con sẽ thổi chúng đi, mong Đại Sư chớ sợ!

    Nói xong, Thần liền đảnh lễ tạ từ lui ra. Tăng chúng trong chùa, vừa đưa Thần ra cửa, thì thấy có rất nhiều người, đứng hai hàng dài, đi theo hầu. Tướng Thần oai vệ uy nghi như vua chúa, xung quanh thân sương khói xông lên mù mịt, mây ngũ sắc quấn chằng chịt, trên đầu có tràng phan ngọc bội. Thần bay lên hư không rồi biến mất. Tối đến, quả nhiên mây kéo đến ùn ùn, mưa to gió lớn, sấm sét nổi lên, mái nóc đều lung lay rung động, khiến chim chóc cầm thú la hoảng. Đại Sư bảo đại chúng:

    - Chớ sợ! Chớ sợ! Thần làm theo ý ta.

    Sáng hôm sau, trời trong mưa tạnh; tất cả cây cối bên phía Bắc đều được dời hết qua đỉnh núi phía Đông, mọc tủa xum xuê khắp nơi. Đại Sư thấy thế, bảo đệ tử:

    - Sau khi Ta mất, chớ kể chuyện này cho người ngoài nghe. Nếu họ biết được, sẽ cho Ta là yêu quái.

    Quý vị hãy xem, Thần tuy có thần thông, nhưng không bằng người có đạo đức. Thế nên bảo rằng "đức trọng Quỷ Thần khâm". Người không có đạo đức, bị Quỷ Thần quản chế, thọ bao hiểm họa. Người có đạo đức, lại muốn minh tâm kiến tánh, thì tự nhiên sẽ cảm động Quỷ Thần. Chư thiền sư đại đức xưa nay, tu hành kinh thiên động địa, khiến hươu nai dâng hoa, khỉ vượn cúng trái. Thiên ma ngoại đạo, chư Tiên Quỷ Thần, đều đến quy y, như Chân tổ sư quy y Quán Âm, Tài Thần quy y Phổ Hiền, Động Tân tiên sư quy y Hoàng Long, Vương Linh Quang quy y Địa Tạng, vua Văn Xương quy y Phật Thích Ca, v.v... Do đó, hoàng đế Nhân Tông triều Tống viết bài kệ phú tán thán chư Tăng đại đức: "Những bậc tôn quý nhất trên thế gian, không ai bằng những vị xả tục xuất gia".


    Xác thân nát _ Thế giới mất _ Nguyện vẫn còn.

  2. #102
    NỤ Avatar của nguoi ao lam
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    885
    Thanks
    487
    Thanked 474 Times in 127 Posts
    PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂN
    Phần 5 _ XXII. Thiền thất khai thị lần thứ hai
    __________________________________________________ ______________________________________


    Nếu được làm Tăng sĩ, thì mới thọ sự cúng dường của Trời Người. Làm đệ tử của đấng Thế Tôn, tức là quyến thuộc của Tiên Thánh, vào nơi cửa vàng, đến cung điện bảo tạng. Hươu trắng dâng hoa, khỉ vượn cúng trái. Xuân nghe chim hót líu lo, vang tiếng diệu nhạc cơ trời. Hạ nghe ve kêu trên cây cao, liền biết mùa nóng đã đến. Thu ngắm trời xanh, gió trong trăng sao chiếu sáng. Đông xem tuyết phủ đảnh núi sông ngòi. Ngồi thiền trên bồ đoàn, thân ấm áp. Dẫu sóng ba đào nổi dậy, vẫn cỡi tích trượng thăng hư không. Mười đại quân ma khi nghe danh, vẫn phải hàng phục, quy y chánh đạo. Vang tiếng gõ bản, bèn lên vân đường lễ cúng. Nghe tiếng chuông, bèn lên chánh điện tụng Kinh. Mọi việc đều như ý, muôn loại hiện thành. Lúc sống làm thầy Trời Người. Lúc chết quyết định quy y thánh quả. Kệ viết:

    "Không Vương đệ tử Phật

    Quyến thuộc chư Như Lai

    Thân mặc y trăm mảnh

    Miệng ăn ngàn bát cơm

    Tối ngủ giường vô úy

    Sáng thấy Phật A Di Đà".

    Nếu Trẫm được như vậy, thì rất là mãn nguyện"
    .

    Trên đây là lời văn tán tụng chư Tăng đại đức của hoàng đế Nhân Tông. Chúng ta tự hãy xem xét mình có tương ưng điểm nào với bài văn phú tán thán này không? Nếu hạnh mình đều tương hợp với lời văn trên, thì mới có thể thọ sự tôn kính của Quỷ Thần. Nếu "sóng ba đào khởi", như khi vô minh dấy lên, mà không thể "mở tích trượng, phóng lên hư không", khiến làm náo loạn cả trời đất, thì thật xấu hổ cùng cực. Ngược lại, nếu "mười đại ma quân" làm phiền hà, khiến chẳng được như ý, và bao việc chẳng thành tựu, mà có thể hàng phục chúng, thì Trời Rồng tám bộ Quỷ Thần đều tôn trọng cung kính.

    Xác thân nát _ Thế giới mất _ Nguyện vẫn còn.

  3. #103
    NỤ Avatar của nguoi ao lam
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    885
    Thanks
    487
    Thanked 474 Times in 127 Posts
    PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂN
    Phần 5 _ XXII. Thiền thất khai thị lần thứ hai
    __________________________________________________ ______________________________________


    6/ Ngày hai mươi bốn tháng ba

    Hôm nay, có các vị pháp hữu phát tâm yêu cầu tôi thuyết Ngữ lục. Tôi thấy việc này vô ích, vì Kinh điển nhà Phật, cùng bao lời dạy bảo của chư Tổ Sư, thật nhiều vô số. Tất cả lời giáo huấn đó, quý vị không chịu xem đọc, mà chỉ muốn tôi nói những việc bên Đông bên Tây, lưu truyền ra ngoài có ích gì?

    Từ xưa đến nay, Phật giáo truyền vào nước Tàu, lưu lại rất nhiều Kinh Luật Luận, chú giải điển chương, ngữ lục. Buổi đầu, được kết thành Đại Tạng. Đầu tiên, vua Tống Thái Tổ, niên hiệu Khai Bảo thứ tư (971), sai Truơng Tùng Tín đến Tây Xuyên, thuê thợ khắc Kinh Tạng. Đến đời vua Tống Thái Tông, niên hiệu Thái Bình Hưng Quốc thứ tám (983), trải qua mười ba năm, mới khắc thành 'Thục Bản Đại Tạng Kinh', được gọi là bản Đại Tạng Kinh đời Bắc Tống. Đây là một công trình rất tinh vi kỹ lưỡng. Song, sau này dần dần bị tán lạc mất. Cuối đời Tống, có tạo khắc bản Đại Tạng Kinh bốn lần. Bản Đại Tạng Kinh cuối cùng, khởi công in khắc vào đời vua Lý Tông, niên hiệu Thiệu Định, năm thứ tư (1231), tại viện Diên Thánh ở Tích Sa, cho đến đời vua Nguyên Quý Phương mới hoàn thành, được gọi là bản Đại Tạng Tích Sa.

    Người xem bản Đại Tạng Kinh này rất ít. Hai chùa tại Xiểm Tây ở Tây An là Khai Nguyên và Ngọa Long, còn giữ được bộ Đại Tạng Kinh này, được gọi là Đại Tạng Kinh Hoàn Bích. Triều Minh, đời vua Chu Khánh Lan, Đại Tạng Kinh được in ấn lại. Dân Quốc năm thứ hai mươi mốt (1932), hội ấn hành Tống Đại Tạng Kinh ra đời tại Thượng Hải. Hội sắp đặt, soạn thảo theo thứ tự, rồi tích cực ấn hành. Đầu tiên, hội phái người đến Xiểm Tây, kiểm tra lại số Kinh sách, tính được hết là sáu ngàn ba trăm mười quyển, còn thiếu hơn một trăm quyển. Thế nên, hội dùng bộ Tống Tư Khê, do nhà xuất bản Tùng Ba tại Bắc Kinh ấn hành, để bổ khuyết vào Đại Tạng Kinh, nhưng vẫn chưa đủ. Hội lại ủy thác tôi đem những bộ kinh tại chùa Dõng Tuyền như Đại Tạng Kinh Tích Sa, kinh Đại Bát Nhã, kinh Bảo Tích, để thêm vào cho đủ.

    Lạ lùng thay, ngọc báu Đại Tạng Kinh đã bị chôn vùi mấy trăm năm, nay được lưu truyền trong toàn quốc. Song, có một khuyết điểm là việc kiểm duyệt lại bộ Đại Tạng Kinh rất bất tiện. Đời Minh, thiền sư Tử Bá phát tâm in khắc rất nhiều Kinh điển. Sau khi bản Đại Tạng Kinh Gia Hưng được lưu thông, việc kiểm duyệt rất tiện lợi. Gần đây, ở Hàng Châu có hai vị cư sĩ, Tiễn Khoan Huệ và Tần Khoan Phước, thấy có Tăng nhân bán Kinh sách cho dân chúng để làm giấy dùng hằng ngày, nên họ tận lực phát tâm mua lại những quyển Kinh sách đó, rồi gởi về núi Vân Cư. Hiện tại, núi Vân Cư có các bộ Đại Tạng Kinh như bộ Đại Tạng Tích Sa, Đại Tạng Tần Già, cùng những bộ Kinh khác, rất đầy đủ và dễ dàng trong việc kiểm duyệt.

    Thông một pháp thì muôn pháp đều thông, chứ chẳng câu nệ nơi việc đọc nhiều Kinh điển. Có thể xem toàn bộ Đại Tạng Kinh trong ba năm để gieo nhân lành thành Phật. Song, đọc xem Đại Tạng Kinh như cỡi ngựa ngắm hoa. Nếu muốn đạt lợi ích chân thật, phải đọc tụng thuộc làu thành thục. Theo ngu kiến của tôi, người sơ phát tâm tu thiền, nên chuyên chú học thuộc Kinh Lăng Nghiêm, tức chỉ cần học thuộc lòng mà không cần xem chú giải. Khi học thuộc bộ Kinh này rồi, thì dùng văn Kinh phần trước giải thích phần sau, hay văn Kinh phần sau giải thích phần trước. Bộ Kinh này thuyết kỹ càng tinh tế, từ phàm phu đến quả vị Phật, từ vô tình đến hữu tình, cùng núi sông đất đá, bốn Phàm sáu Thánh, tu chứng mê ngộ, giới luật sự lý nhân quả. Bởi thế, lợi ích học thuộc Kinh Lăng Nghiêm là sẽ thấu suốt được những vấn đề đó.

    Xác thân nát _ Thế giới mất _ Nguyện vẫn còn.

  4. #104
    NỤ Avatar của nguoi ao lam
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    885
    Thanks
    487
    Thanked 474 Times in 127 Posts
    PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂN
    Phần 5 _ XXII. Thiền thất khai thị lần thứ hai
    __________________________________________________ ______________________________________


    Người thường tham cứu tu học phải có ba việc: Một là đôi mắt phải tinh tế. Hai là đôi tai phải tinh tường. Ba là bao tử phải rắn chắc. Đôi mắt tinh tế, tức là phải có cặp mắt Kim Cương chân chánh. Thấy tất cả sự việc, phải phân biệt đúng sai, tốt xấu, tà chánh, phàm thánh. Đôi tai tinh tường, tức là đôi tai thuận gió. Nghe người khác nói lời gì, liền biết rõ chúng thuộc về lý lẽ nào. Bao tử rắn chắc, tức là phải giống như bao tử của Bồ Tát Di Lặc. Nghe thấy những việc tốt xấu, đều thọ nhận hết. Gặp duyên thì ứng cơ giáo hóa quần sanh. Mang những việc thấy nghe để nghiên cứu so sánh. Nếu là việc thiện thì làm theo, còn nếu là việc xấu thì sửa đổi. Làm mọi việc đều phải căn cứ vào tiêu chuẩn đó. Vì vậy, chúng ta phải có bao tử rắn chắc để dung chứa muôn việc, nhưng chớ nên thổi da trâu để dùng, cùng giả bộ biết này biết nọ, hay nói càn nói bậy.

    Ngài Quy Sơn bảo:

    - Nói ra lời nào phải liên hệ với Kinh điển. Đàm luận gì, phải xét lại lời người xưa.

    Vì vậy, phải xem Kinh điển để biết cách tu hành đúng đắn, hầu mong đạt được lợi ích. Lời hồ ngôn loạn ngữ của tôi rất tầm thường, chẳng có câu nào đáng giá. Lúc trẻ, tuy rất thích xem Kinh điển, nhưng chỉ dùng những lời trống rỗng để đàm luận. Thật rất xấu hổ.

    Truyện Tây Du Ký hay truyện Mục Liên được lưu truyền trong thế gian. Chúng vốn là những truyện thanh tục không phân, thị phi điên đảo, chân thành giả, giả thành chân. Truyện Mục Liên viết rằng tôn giả Mục Kiền Liên biến thành Bồ Tát Địa Tạng ở trong kinh Địa Tạng. Đây là lời rất hàm hồ. Trong đời Đường, pháp sư Huyền Trang có viết quyển Tây Du Ký. Nội dung của quyển này vốn là những lời chân thật. Song, truyện Tây Du Ký được lưu truyền trên thế gian hoàn toàn là những lời ma quỷ. Hòa thượng Bạch Vân ở chùa Bạch Vân giảng kinh Đạo Đức, khiến rất nhiều đạo sĩ xuất gia làm Tăng sĩ. Do đó, các đạo sĩ tại Trường Xuân Quán không vừa lòng, nên nói dối là theo lịnh quan quân, sửa Trường Xuân Quán thành chùa Trường Xuân, và chùa Bạch Vân thành Bạch Vân Quán.

    Các đạo sĩ tự viết ra quyển tiểu thuyết Tây Du Ký để phỉ báng Phật giáo. Xem xét kỹ càng quyển tiểu thuyết Tây Du Ký này thì sẽ thấy chân tướng của họ. Sự lợi hại nhất là họ chẳng hề ghi lại việc pháp sư Huyền Trang mang Kinh vượt qua các bãi sa mạc mà trở về bổn quốc. Họ viết là pháp sư Huyền Trang chỉ lưu lại sáu chữ "Nam Mô A Di Đà Phật". Những Kinh điển do pháp sư Huyền Trang phiên dịch, họ hoàn toàn bỏ qua không nhắc đến. Thế nhân rất tin tưởng vào quyển truyện Tây Du Ký giả dối đó, khiến quyển Tây Du Ký chân thật lại bị chôn vùi. Để đối đầu lại quyển tiểu thuyết Tây Du Ký giả dối, các Phật tử viết ra bộ truyện Phong Thần để phỉ báng các đạo sĩ. Quyển truyện này nói rằng các đạo sĩ dầu tu Tiên bao số kiếp, nhưng vẫn còn tâm sân hận chém giết lẫn nhau.

    Xem hai quyển truyện này, nếu không biết rằng chư Phật tử cùng các đạo sĩ phỉ báng lẫn nhau, thì sẽ lầm nhận giả thành chân. Vì vậy, khi xem sách vở thế tục, phải phân biệt rõ những điều thị phi, đúng sai, tà chánh. Truyện Bạch Xà ghi rằng chùa Kim Sơn bị nạn lụt lội; việc này được ghi chép trong sách vở của nhà nho, còn Kinh sách của Phật giáo nào có viết đến. Thế nên, chẳng phải là sự thật. Hiện nay, tại chùa Kim Sơn còn động Pháp Hải, mà tiểu thuyết lại ghi rằng đó là tháp Lôi Phong và đỉnh Phi Lai. Thật là những điều hàm hồ vô căn cứ. Lại nữa, một truyền thuyết cho rằng thiền sư Cao Phong có một nửa đồ đệ: Đoạn Nhai là một, và Trung Phong là phân nửa. Trong các điển chương của Phật giáo nào có ghi những điều này!

    Nếu muốn có lợi ích thật thụ, hãy xem những quyển Kinh sách của cổ nhân như Thích Thị Cổ Lược, Thiền Lâm Bảo Huấn, Hoằng Minh Tập, Bổ Giáo Biên, Kinh Lăng Nghiêm.

    Xác thân nát _ Thế giới mất _ Nguyện vẫn còn.

  5. #105
    NỤ Avatar của nguoi ao lam
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    885
    Thanks
    487
    Thanked 474 Times in 127 Posts
    PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂN
    Phần 5 _ XXII. Thiền thất khai thị lần thứ hai
    __________________________________________________ ______________________________________


    7/ Ngày hai mươi sáu tháng ba

    Giáo điển nhà Phật, nếu bàn về việc hành trì, thì không ngoài bốn chữ: Tín, giải, hạnh, chứng. Kinh nói: "Tín là mẹ của tất cả công đức".

    Tín tức là tín tâm. Trong kinh Hoa Nghiêm, thứ lớp đạt được quả vị Bồ Đề, do từ Sơ tín đến Thập tín.

    Tín việc gì? Tín diệu pháp của Như Lai; nơi mỗi câu cú ngôn ngữ đều chỉ thẳng vào chân tâm, thấy tánh thành Phật. Những lời này, chân thật đích xác, không thể sửa đổi. Người tu hành phải khởi dụng công từ tâm, chớ hướng ngoại tìm cầu. Tin tâm mình là Phật. Tin ngôn ngữ Thánh giáo, không thể vọng động cải biến.

    Giải tức là trong mọi hành động cử chỉ, Chân đế và tục đế đều viên dung. Tự mình biết uyển chuyển thuyết pháp tu đạo. Vận lực tận suốt nguồn tâm, khiến ánh sáng trí huệ chiếu soi khắp nơi. Đó gọi là kiến giải. Song, nếu hiểu mà chẳng hành trì, thì không thể thành công. Thế nên, miệng phải đọc tụng, tâm phải tư duy. Tâm và miệng phải tương ưng, không thể trái ngược. Miệng không thể bảo "lấy gấm thêu hoa", mà bao tử lại chứa đầy tham, sân, si, ngã mạn. Những lời đàm luận trống không, quyết chẳng có lợi ích. Tâm tư duy những gì? Nếu nói ra lời nào, phải y cứ theo Thánh giáo lượng. Cử chỉ động niệm, chẳng nên vượt ngoài thành trì Thánh giáo lượng. Nói được và làm được, thì ngôn ngữ và hành động mới không khiếm khuyết. Thuyết pháp đến độ hoa Trời rơi khắp đất, mà không chân thật hành trì; không làm được thì chớ nói; chớ nên như nam ăn cắp, nữ hát suông. Hạnh có nội hạnh và ngoại hạnh. Cả trong và ngoài đều phải tương ưng. Nội hạnh cắt đứt hai chấp trước: Ngã và pháp. Ngoại hạnh tức là hành muôn hạnh lành thiện vi tế.

    Chứng tức là thật chứng lý chân thường.

    Có tín có giải, mà không có hạnh thì không thể chứng đắc; đó gọi là phát cuồng. Người thuyết pháp trên thế gian rất nhiều như lông trâu, nhưng khi tu hành lại chẳng biết gì là thiền sư hay pháp sư. Họ chú giải được vài bộ Kinh như Kim Cang, Tâm Kinh, Bát Thức Quy Củ, hoặc Lăng Nghiêm, rồi tự vênh mũi khoe khoang, nhưng lúc hành trì lại không khác với người thế tục; kể món ăn mà không chịu ăn.

    Nơi các động tác hành vi phải phân rõ nội hành và ngoại hành.

    Trong nội hành, định và huệ phải viên dung. Nơi ngoại hành, tại bốn oai nghi, phải thường nghiêm thủ giới pháp, chẳng để phạm chút nào. Nếu được như thế thì tự mình mới có phần ích lợi. Lại nữa, chính tự thân mình làm được thì mới có thể giáo hóa người. Muốn nhân tâm cảm kích, phải chân thật hành trì, không cần đàm luận nói năng nhiều. Văn Di Sơn bảo: "Nếu thấy tướng Ta, cho đến nghe tên Ta, mọi chúng sanh đều phát tâm Bồ Đề, mãi mãi xuất ra khỏi vòng luân hồi sanh tử".

    Hành vi của mình nếu chân chánh thì mới có thể giáo hóa người. Chớ để người thấy hành vi bất chánh của mình mà sanh thối tâm, khiến chiêu tội báo đọa lạc.

    Thiền sư Pháp Dung ẩn tu trong hang đá Bắc Nham, cạnh chùa U Thê, tại núi Ngưu Đầu. Ngài tu hành rất mực tinh tấn, được trăm loài chim dâng hoa quả cúng dường. Vào đời Đường Trinh Quán, Tứ Tổ đến núi đó để xem khí tượng, thấy biết có bậc dị nhân, nên cố tự tìm đến. Vào chùa, Tứ Tổ hỏi:

    - Trong chùa có bậc đạo nhân không?

    Tăng chúng đáp:

    - Người xuất gia nơi đây, ai chẳng phải là đạo nhân!

    Xác thân nát _ Thế giới mất _ Nguyện vẫn còn.

  6. #106
    NỤ Avatar của nguoi ao lam
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    885
    Thanks
    487
    Thanked 474 Times in 127 Posts
    PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂN
    Phần 5 _ XXII. Thiền thất khai thị lần thứ hai
    __________________________________________________ ______________________________________


    - Ai dám tự xưng là đạo nhân?

    Tăng chúng không lời đối đáp. Một vị tăng khác bước ra thưa:

    - Cách nơi này khoảng mười dặm có một ông Tăng, thấy người đến, chẳng thèm đứng dậy hay chắp tay xá. Đây có phải là bậc đạo nhân chăng?

    Nghe vậy, Tổ liền vào núi, thấy thiền sư ngồi thiền an nhiên, chẳng màng quay đầu lại nhìn. Tổ bảo:

    - Ông ngồi đây làm gì?

    Thiền Sư thưa:

    - Ngồi quán tâm.

    - Người quán là ai, và tâm là vật gì?

    Thiền sư không lời đối đáp, nên liền đứng dậy đảnh lễ, thưa:

    - Đại Đức quang lâm, an trụ nơi nào?

    Tổ bảo:

    - Bần đạo không có chỗ dừng chân nơi Đông nơi Tây nhất định.

    - Ngài có biết thiền sư Đạo Tín không?

    - Sao hỏi đến vị đó?

    - Ngưỡng mộ oai đức đã lâu, mong mỏi có dịp để yết kiến lễ bái.

    - Đạo Tín chính là bần đạo!

    - Vì sao Ngài lại đến đây?

    - Đến đây để thăm ông. Có chỗ nào nghỉ ngơi không?

    Thiền Sư chỉ tay ra đằng sau hang động, đáp:

    - Ở đây còn một am tranh nhỏ.

    Thiền Sư liền dẫn Tổ đến am tranh đó. Khi thấy hổ sói, Tổ ra dáng sợ hãi, đưa hai tay lên. Thiền Sư thấy vậy hỏi:

    - Ngài vẫn còn cái đó à?

    Tổ hỏi lại:

    - Cái đó là gì?

    Thiền sư im lặng không đối đáp. Lát sau, Tổ vẽ chữ Phật trên tòa ngồi của thiền sư. Thấy chữ Phật, thiền sư giật mình lo sợ. Tổ hỏi:

    - Ông vẫn còn cái đó à?

    Thiền sư chưa hiểu, chỉ dập đầu lễ bái, thỉnh Tổ thuyết yếu chỉ. Tổ bảo:

    - Trăm ngàn pháp môn, đồng quy về một tấc vuông. Hà sa diệu đức đều nhiếp về nguồn Tâm. Tất cả môn giới định huệ, thần thông biến hóa, đều tự có đầy đủ, chẳng rời Tâm ông. Mọi nghiệp chướng phiền não, vốn là không tịch. Mọi nhân quả vốn như mộng huyễn. Không có ba cõi để xuất ra, không có Bồ Đề để cầu; nhân cùng phi nhân, tánh tướng bình đẳng; đại đạo thênh thang, tuyệt đường suy nghĩ. Những pháp như thế, nay ông đã CÓ, chẳng hề thiếu sót, sao khác với Phật? Ngoài pháp này, chẳng còn pháp nào khác. Tâm ông chỉ việc tự tại, chẳng cần quán hành, chẳng cần lắng đọng tâm tư, chẳng khởi tham sân si, chẳng ưu sầu lo nghĩ; mông mênh bát ngát vô ngại, tùy ý tung hoành, không làm việc thiện, chẳng tạo việc ác; đi đứng nằm ngồi, mắt thấy gặp duyên, đều là diệu dụng của Như Lai; an lạc chẳng ưu sầu, gọi đó là Phật.

    Xác thân nát _ Thế giới mất _ Nguyện vẫn còn.

  7. #107
    NỤ Avatar của nguoi ao lam
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    885
    Thanks
    487
    Thanked 474 Times in 127 Posts
    PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂN
    Phần 5 _ XXII. Thiền thất khai thị lần thứ hai
    __________________________________________________ ______________________________________


    Thiền Sư hỏi:

    - Tâm đã đầy đủ, vậy gì là Phật, gì là Tâm?

    Tổ đáp:

    - Chẳng phải Tâm chớ hỏi Phật. Hỏi Phật chẳng thể không Tâm.

    - Nếu chẳng cần quán hạnh, thì lúc gặp cảnh khởi tâm, làm sao đối trị?

    - Cảnh vốn không tốt xấu. Tốt xấu đều do tâm khởi. Tâm nếu không chạy theo danh lợi, thì vọng tình do đâu mà khởi! Lúc vọng tình chẳng khởi, chân Tâm mặc tình giác biết khắp nơi. Tâm tùy thời tự tại, chẳng cần đối trị, tức gọi là Pháp thân thường trụ, không biến đổi khác lạ. Ta thọ pháp môn đốn giáo của đại sư Tăng Xán, nay phó chúc cho ông. Ông hãy lắng nghe cho kỹ mà thọ trì lời Ta. Ông chỉ nên trụ tại núi này. Mai sau sẽ có năm vị đạt nhơn đến đây nối tiếp ông hoằng hóa.

    Thiền sư Pháp Dung Ngưu Đầu, lúc chưa yết kiến Tứ Tổ, trăm loài chim dâng hoa cúng quả. Sau khi Thiền Sư gặp Tổ, chim không còn đến cúng dường nữa. Lý này thế nào? Cảnh giới Phật pháp không thể nghĩ bàn. Trời người rải hoa cúng dường mà không dấu vết. Quỷ thần tìm tông tích mà nào thấy cửa ngõ. Nếu sanh tử chưa đoạn thì không thể được như thế. Ngồi trên cây khô đá cuội mà ngủ thì không hợp với Phật pháp, thật uổng phí công phu.

    Chúng ta khác với người xưa, luôn mong mỏi Trời người cúng dường. Song, họ nào ngó ngàng đến, vì chúng ta chẳng hành trì chân thật. Người chân thật dụng công hành trì, nơi đầu đường xó chợ, trà đình tửu quán, đều là đạo tràng. Tình nếu không phụ vật, thì vật chẳng chướng ngại người, như gương chiếu soi muôn vật, không nghinh đón cũng không cự tuyệt. Nếu được như thế thì tương ưng cùng đạo. Chớ chấp tâm mê cảnh, tìm pháp ngoài tâm.

    Tôi rất xấu hổ, vì chưa chứng đắc được gì; sao lại lắm lời, có lợi ích gì! Quý vị chú giải, và tôi chú giải Kinh luận Phật Tổ. Chú giải đến nỗi không cần chú giải nữa. Ngày ngày đăng đàn giảng Kinh thuyết pháp, nhưng khi nhìn mình, người ngoài liền hồ nghi sợ hãi, thối tâm đọa lạc. Do đó, muốn thuyết pháp lợi người, thì thân tâm phải tự hành trì trước. Thân phải hành trì như thế nào? Bàn đến việc này, tôi thật rất xấu hổ.

    Xác thân nát _ Thế giới mất _ Nguyện vẫn còn.

  8. #108
    NỤ Avatar của nguoi ao lam
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    885
    Thanks
    487
    Thanked 474 Times in 127 Posts
    PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂN
    Phần 5 _ XXII. Thiền thất khai thị lần thứ hai
    __________________________________________________ ______________________________________


    8/ Ngày ba mươi tháng ba

    Hôm nay, tôi không thể thượng đường giảng Kinh thuyết pháp; xin quý vị lượng thứ cho. Chẳng phải tôi làm biếng, mà vì thân thể không khỏe, sự hành trì cũng chưa đạt đến cứu cánh, chỉ đem lời của người xưa để cùng đại chúng hỗ tương sách tấn. Hôm nay, tôi không giảng, vì có hai nguyên do:

    Thứ nhất, vì bịnh hoạn. Quý vị ai ai cũng biết thể lực tôi không được khỏe cho lắm. Đại chúng tụ hội nơi đây để nghe giảng thuyết. Nếu không gắng sức đến đây, sợ mọi người lo lắng. Vì vậy, tôi phải tới nhưng thật mệt nhọc, nên không thể giảng thuyết.

    Thứ hai, thuyết pháp một thước mà chưa thể hành trì một tấc. Chúng ta có duyên với nhau, cùng hội tụ nơi giảng đường. Mạng người vô thường, sáng còn tối mất, như lửa đá ánh sáng sấm chớp, sao giữ được lâu! Lời nói trống không, đối với sự liễu sanh thoát tử, có lợi ích gì? Nếu có nói lời gì thì đều là lời của chư Thánh Hiền thuở xưa. Tôi tự biết tánh khí của mình rất xấu, giảng giải chưa được hoàn toàn. Dẫu có giảng giải hoàn toàn đi nữa, mà chẳng chịu thực hành, thì không lợi ích gì. Mở lời nào, miệng phải đọc tụng, tâm phải tư duy. Nghe giảng Kinh thuyết pháp, phải tưởng như khát được uống nước Cam lồ. Nếu được như vậy, người thuyết và kẻ nghe đều có phần ích lợi. Nghiệp chướng của tôi nặng nề, không thể hành được như thế. Bậc cổ đức hơn hẳn người sau. Làm sao tôi sánh bằng được các ngài! Những lời giảng giải đều vô ý nghĩa, không đúng như pháp. Vì vậy, không thể giảng giải.

    Hiện nay là đời Mạt pháp, ai có thể hành được như chư cổ đức, nơi nhất cử nhất động, la mắng đánh đập, phơi gan rạch mật, đều chuyển được tánh Phàm thành tánh Thánh?

    Tôi xuất gia năm mười chín tuổi; mãi đến hôm nay, đã ngoài trăm tuổi, cả đời trôi qua vô ích. Lúc trẻ, chưa biết việc sống chết, nên phiêu bạt Đông Tây; học đạo vội vàng hấp tấp, chưa từng đặt chân nơi chốn chân thật. Lúc sanh tử đến, cũng khổ sở như ai. Ngài Quy Sơn nói:

    - Tự hận không dự bị tu hành, tuổi về chiều càng nhiều tội lỗi. Khi chết, hành ấm tan rã, bồn chồn sợ hãi, như chim bay xuyên thủng xác thân. Tâm thức tùy theo nghiệp lực, như người thiếu nợ, chủ nào mạnh thì dẫn đi trước. Tâm rối đa đoan, nơi nào nặng thì rơi vào trước.

    Lúc trẻ, không chịu dũng mãnh tu hành, và không xả bỏ thân tâm, chỉ xoay cuồng nơi danh lợi phiền não thị phi. Nghe Kinh, ngồi thiền, leo núi lội sông, lễ Xá lợi, đều tự dối gạt mình. Khi ấy, chẳng biết tốt xấu, nên cả ngày chạy ruỗi trăm dặm; đói khát thì xin thức ăn nơi người, quên đi chính mình. Thế nên, lãng phí thời gian quý báu; ngày nay vừa hối hận "xưa chẳng dự bị tu hành", thì già bịnh đến, chết cũng không được, sống cũng không yên, xả chấp chưa nổi. Sống cũng khổ, mà chết cũng nhọc. Đó là "tuổi về chiều, tội càng nhiều". Tu hành chưa từng bước đến nơi chân thật. Lúc sắp chết, tùy theo nghiệp mà lưu chuyển, như gà con phá vỏ trứng đi ra, tức là "chim bay xuyên thân, tâm thức tùy nghiệp báo dẫn dắt". Nếu làm chủ được thì có khả năng chuyển muôn vật. Hiểu rõ bốn đại là không thì tâm thức không bị nghiệp dẫn. Ngược lại, như người thiếu nợ, bị bức bách đòi tiền. Bấy giờ hoang mang trên đường lộ, chưa biết sẽ đi về đâu, lại bị bao thống khổ, mà hối hận thì đã quá trể. Mở mắt ra, thấy đầu trâu mặt ngựa. Chẳng phải núi đao, thì cũng là rừng kiếm. Khi ấy, quý vị còn muốn nói lời gì?

    Chư đồng tham học! Khi trẻ, thân thể vẫn còn tráng kiện, phải mau nỗ lực tinh cần, lo lắng xếp đặt lộ trình, dụng công tu đạo. Như tôi nay đã già yếu, muốn tu hành mà chẳng được. Miệng giảng ba hoa, nói cả một đời, chẳng có ý nghĩa mùi vị nào hết. Lúc xưa, nơi chùa Thất Tháp ở Đông Tây Nam Bắc, tứ sơn ngũ nhạc, Chung Sơn, Kim Sơn, Tiêu Sơn, Vân Nam, Tây Tạng, Miến Điện, Xiêm La, Ấn Độ, chạy nhốn nháo khắp nơi, không hề biết mệt. Lúc trẻ, thích tranh làm chúa tể, cùng làm những việc vô ích. Ngày nay nghĩ lại, thấy mọi việc làm xưa kia đều là sai quấy.

    Xác thân nát _ Thế giới mất _ Nguyện vẫn còn.

  9. #109
    NỤ Avatar của nguoi ao lam
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    885
    Thanks
    487
    Thanked 474 Times in 127 Posts
    PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂN
    Phần 5 _ XXII. Thiền thất khai thị lần thứ hai
    __________________________________________________ ______________________________________


    Quý đạo hữu đồng tham học! Tham thiền phải tham khán câu thoại đầu cho đến chết. Người xưa bảo:

    - Tu hành chân thật, giải nghiệp đời hiện tại cùng quá khứ.

    Chân thật tu hành, tức là tham khán thoại đầu cho đến chết; quyết giữ câu "ai đang niệm Phật ?" làm cội gốc. Chớ đùa giỡn nơi xảo thuật vi diệu, vì chúng không thể chống lại quỷ vô thường. Tâm kiên cố, không biến đổi, tức là tâm chân thật. Trước lúc niệm khởi, tức là thoại đầu. Niệm vừa sanh, tức thoại đuôi. Sanh chẳng biết từ đâu đến. Chết cũng không biết sẽ đi về đâu. Luôn bị sanh tử lưu chuyển. Nếu biết rõ mình là ai trước khi cha mẹ sanh ra, thì một tấc lụa cũng chẳng mang, vạn lý tình không, chẳng quảy một mảnh mây hồng. Lúc đó, công phu mới có phần đắc dụng.

    Người biết dụng tâm tu tập thì không còn phân biệt Thiền tông hay Tịnh Độ tông là hai. Tham thiền là tham Quán thoại đầu. Niệm Phật cũng là Quán thoại đầu. Việc quan trọng là phải thiết tha với sanh tử, chân thật tu hành, tức nắm chặt câu thoại đầu, chết cũng không buông bỏ. Đời nay chưa xong, thì đời sau sẽ tu tiếp. "Đời đời nếu không thối thất, quả vị Phật tất sẽ có kỳ".

    Ngài Triệu châu bảo:

    - Tham thiền nơi lý không, ngồi mãi ba mươi năm, nếu không ngộ đạo, hãy chặt đầu Lão Tăng.

    Tổ Cao Phong nhập thất cho đến chết. Ngài Tuyết Phong chín lần lên núi Động Sơn. Triệu Châu lúc tám mươi tuổi mà vẫn đi tham phương hành cước. Lúc đến Vân Cư gặp Ưng Tổ, tuy tuổi gấp đôi, nhưng Triệu Châu vẫn cung kính Ưng Tổ như bậc tiền bối, chẳng chấp ngã tướng, chẳng hổ thẹn tham vấn đạo. Sau đó, Ngài giữ chặt câu thoại đầu cả vài thập niên, rồi mới ngộ đạo. Đại sư Liên Trì đồng hành với hơn hai mươi người, cùng đến tham vấn lễ bái thiền sư Biến Dung ở kinh sư. Thiền sư Biến Dung dạy:

    - Pháp môn thiết yếu quý báu nhất là không tham danh lợi, không phan duyên. Duy chỉ một lòng tu đạo.

    Khi ấy, có một vị Tăng trẻ cười nói:

    - Tưởng rằng sẽ nghe được những điều lạ tai. Ai ngờ chỉ có những lời tầm thường này.

    Đại sư Liên Trì bèn bảo:

    - Lời khả kính của vị thiền sư này là tại nơi đây.

    Hãy cẩn thận lời lẽ. Chớ dùng đôi câu vấn đáp của chư tiên đức để che giấu mặt mũi mình. Nói được thì phải hành được. Tự thân hành trì thì mới giáo hóa người được. Nếu được như thế, thì sẽ làm con thuyền cứu mạng cho chúng sanh. Nếu ngôn hạnh tương phản trái ngược, chỉ lo nói năng suông, thì như cho thuốc chẳng đúng bịnh, nên thuốc này trở thành thuốc độc. Quý vị chẳng có vàng thì không thể mua bạc được. Có vàng tức là có cặp mắt chân chánh. Có cặp mắt chân chánh tức có thể nhận ra châu báu. Quý vị hãy lưu tâm tỉnh táo quan sát, xem coi mình có vàng hay không!

    Xác thân nát _ Thế giới mất _ Nguyện vẫn còn.

  10. #110
    NỤ Avatar của nguoi ao lam
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    885
    Thanks
    487
    Thanked 474 Times in 127 Posts
    PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂN
    Phần 5 _ XXII. Thiền thất khai thị lần thứ hai
    __________________________________________________ ______________________________________


    9/ Mồng ba tháng tư

    Phần đầu của Kinh Kim Cang, ngài Tu Bồ Đề bạch hỏi đức Thế Tôn:

    - Người thiện nam thiện nữ muốn phát tâm A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, phải trụ tâm nơi nào, phải hàng phục tâm như thế nào?

    Phật đáp:

    - Phải nên trụ tâm như thế. Phải nên hàng phục tâm như thế.

    Hàng phục tâm tức là ngăn ngừa khởi ý vọng động, khiến nó không chạy rong. Tâm Bồ Đề ai ai cũng có đủ, không hề khiếm khuyết. Đại Tạng Kinh luôn chỉ dạy chúng ta về tâm này. Đức Thế Tôn quán sao buổi sớm, đột nhiên đại ngộ thành Đẳng Chánh Giác. Khi đó Ngài liền bảo:

    - Lạ thay! Tất cả chúng sanh, đều có đầy đủ đức tướng trí huệ của Như Lai. Do vì vọng tưởng chấp trước, nên không thể chứng đắc.

    Rõ ràng, ai ai cũng vốn là Phật, và đều có đầy đủ đức tướng Như Lai. Song, hôm nay vẫn làm chúng sanh, chỉ vì còn quá nhiều vọng tưởng chấp trước. Vì vậy, trong Kinh Kim Cang, Phật bảo chúng ta phải "hàng phục tâm như thế".

    Phật thuyết pháp, chỉ muốn chúng ta nhận ra tâm này. Kinh Lăng Nghiêm nói:

    - Các ông nên biết, tất cả chúng sanh từ xưa đến nay, sanh tử tương tục, chỉ vì không biết Chân tâm thường trụ, tánh tịnh thể sáng, lại dùng vọng tưởng, tưởng đó không thật, mới bị luân chuyển.

    Tổ Đạt Ma từ Ấn Độ sang, chỉ thẳng chân tâm, thấy tánh thành Phật. Ai hiểu rõ, liền thành người vô sự. Lúc tham vấn Lục Tổ, thiền sư Pháp Hải bạch hỏi:

    - Bạch Ngài ! Xin Ngài giải thích rõ lý Tâm tức là Phật.

    Lục Tổ bảo:

    - Niệm trước chẳng sanh, tức là Tâm. Niệm sau chẳng diệt, tức là Phật. Thành tựu tất cả tướng, tức là Tâm. Rời tất cả tướng tức là Phật.

    Thiền sư Trí Thông xem Kinh Lăng Nghiêm hơn một ngàn lần mà chưa hiểu nghĩa ba thân bốn trí, nên đến lễ Lục Tổ, cầu giải đáp. Tổ bảo:

    - Ba thân gồm có Pháp thân thanh tịnh, tức là tự tánh của ông. Báo thân viên mãn, tức là Trí huệ của ông. Hóa thân ngàn ức, tức là Hạnh của ông. Nếu rời bổn tánh mà bàn riêng ba thân, tức gọi là có thân nhưng vô trí. Nếu ngộ ba thân chẳng có tự tánh, tức gọi là bốn trí Bồ Đề.

    Mã Tổ thường bảo rằng tâm tức là Phật, cũng như nghĩa ở trên.

    Ba đời chư Phật và lịch đại Tổ Sư, đều nói đến tâm này. Chúng ta tu hành, cũng tu từ tâm này. Chúng sanh tạo nghiệp, cũng do từ tâm này mà ra. Tâm này nếu chưa sáng, phải tu phải tạo. Tạo Phật hay chúng sanh, tất cả đều do tâm chủ động. Mười pháp giới tức là sáu phàm bốn thánh, đều không ngoài tâm này. Bốn thánh tức là Phật, Bồ Tát, Duyên Giác, Thanh Văn. Sáu phàm tức là Trời, Người, Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh, A Tu La. Trong mười pháp giới, ngoài pháp giới của Phật ra, chín pháp giới kia đều được gọi là chúng sanh. Bốn pháp giới của chư Thánh không còn bị khổ luân hồi. Sáu loài phàm phu vẫn còn bị lưu chuyển trong sanh tử. Vô luận là Phật hay chúng sanh, tất cả đều do tâm tạo. Nếu có ai nhận ra tâm này, thì đại địa chẳng còn một tấc đất, thì nói chi đến mười pháp giới! Mười pháp giới đều từ một niệm sanh khởi.

    Một Thừa chuyên chở hết cả, muôn đức trang nghiêm, tức là pháp giới của Phật. Tu hành hoàn toàn lục độ, tổng nhiếp muôn hạnh, tức là pháp giới của Bồ Tát. Quán xem nhân duyên, chứng lý chân không, tức là pháp giới Duyên Giác. Dụng công tu đạo, thành tựu Tứ Đế, quy về tiểu Niết Bàn, tức là pháp giới Thanh Văn. Tu mọi giới lành, tạo nhân hữu lậu, tức pháp giới chư Thiên. Ái nhiễm không ngừng, thiện duyên hỗn tạp, tức là pháp giới loài người. Tâm thường tham chấp hơn thua, thích tranh thắng bại, tức là pháp giới A Tu La. Ái kiến làm gốc, nghiệp xấu tham lam keo kiệt, tức là pháp giới súc sanh. Tham dục không ngừng, bàng sanh ý tưởng ngu si, tức là pháp giới Ngạ quỷ.

    Ngũ nghịch, mười nghiệp ác, hủy báng Phật pháp, phá trai phạm giới, tức là pháp giới Địa ngục. Song, mười pháp giới không ngoài một tâm niệm. Tu tất cả pháp, tức là tu tâm, tu thiền, niệm Phật, tụng Kinh, lễ bái. Từ sáng đến tối ở trên chánh điện, hành tất cả tế hạnh, đều là tu tâm. Tâm này nếu không xả chấp, sẽ khiến khởi vô minh, giải đãi làm biếng, tất bị đọa lạc. Trừ diệt tập khí, và việc ác không làm, mà luôn hành việc thiện, tức là thăng hướng thiện. Tự tánh vốn là Phật, chớ nên vọng cầu, chỉ việc quét sạch tập khí tham sân si, liền tự thấy bổn tánh thanh tịnh, tùy duyên tự tại.

    Ví như lúa mạch, sau khi giã thành bột, liền thiên biến vạn hóa, có thể làm tương, mì sợi, bánh bột lọc, bánh giò cháo quẩy. Nhiều loại nhiều cách, đều do mình tạo. Nếu biết đó là lúa mạch, thì không bị bánh bao, bánh giò cháo quẩy xoay chuyển. Bánh bột và bánh bò, tuy hai danh từ khác nhau, nhưng cùng đồng một dạng. Chớ lên miền Bắc nhận không ra bánh bột, hay chạy xuống miền Nam nhận không ra bánh bò. Bàn đến bàn lui, không ngoài việc quét trừ tập khí, tức là hàng phục được tâm này. Đi đứng nằm ngồi, động tịnh, bận rộn nghỉ ngơi, chớ khởi niệm dấy tâm; đó là hàng phục được tâm. Nhận biết tâm này như lúa mạch, khiến tạo ra bao loại bánh khác nhau, thì chẳng xa cách đạo.

    Xác thân nát _ Thế giới mất _ Nguyện vẫn còn.

Thông tin chủ đề

Users Browsing this Thread

Hiện có 1 người đọc bài này. (0 thành viên và 1 khách)

Quyền viết bài

  • Bạn không thể gửi chủ đề mới
  • Bạn không thể gửi trả lời
  • Bạn không thể gửi file đính kèm
  • Bạn không thể sửa bài viết của mình
  •