DIỄN ĐÀN PHẬT PHÁP THỰC HÀNH - Powered by vBulletin




Cùng nhau tu học Phật pháp - Hành trình Chân lý !            Hướng chúng sinh đi, hướng chúng sinh đi, để làm Phật sự không đối đãi.


Tánh Chúng sinh cùng Phật Quốc chỉ một,
Tướng Bồ Đề hóa Liên hoa muôn vạn.

Hiện kết quả từ 1 tới 10 của 196
  1. #1
    NỤ Avatar của nguoi ao lam
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    885
    Thanks
    487
    Thanked 474 Times in 127 Posts
    PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂN
    Phần 9
    __________________________________________________ ______________________________________


    Nói xong, Ngài đi tắm rửa cạo đầu. Đến tối, Ngài gọi các đệ tử như Huệ Âm, v.v..., bảo:

    - Tánh thấy, nghe, hiểu, biết của các ngươi, thọ lượng đồng thái dương hư không, vốn không sanh không diệt. Tất cả cảnh giới, đều vốn tự Không-tịch. Không có pháp nào để chứng đắc. Kẻ ngu không liễu đạt, do cảnh làm mê hoặc. Một khi bị cảnh mê hoặc, thì lưu chuyển không cùng tận. Các ngươi nên biết, tâm tánh vốn tự có, chớ chẳng do tạo tác, ví như kim cương, không thể bị phá hoại. Tất cả các pháp, như bóng như âm hưởng, không có chi là thật cả. Kinh thuyết: "Chỉ có một sự thật. Còn hai tức chẳng phải chân. Thường hiểu tất cả đều là không, thì chẳng lụy tình đến vật chi". Đây là nơi dụng tâm của chư Phật. Các ngươi phải tinh cần hành theo.

    Nói xong, Ngài ngồi xếp bằng mà thị tịch. Ngày làm lễ trà tỳ, mây ngũ sắc hóa hiện, mùi hương lạ vi diệu bay khắp bốn phương. Xá lợi của Ngài, sáng chói như châu ngọc. Vì không thích đến những nơi chợ búa lợi danh, mà tâm hoàn toàn tại đạo, nên Ngài đến đi tự do tự tại, chẳng hề bị sanh tử xoay chuyển. Người đời thì khác biệt.

    Đời tôi rất khổ đau, nhiều nạn nhiều chướng, nhiều quỷ nhiều bịnh. Bao năm lừa lẫn ăn uống nơi cửa Không. Vào nam ra bắc, nên nay tâm rất hổ thẹn. Khi vừa sanh ra, mẹ tôi liền tạ thế. Tôi bất hiếu như thế; e sợ Thiên lôi đánh chết, nên phát tâm vì mẹ mình mà tạo công đức, bằng cách lễ bái xá lợi Phật, triều bái núi Ngũ Đài để cầu ngài Văn Thù Sư Lợi gia hộ cho mẹ hiền. Tuy những việc đó chỉ là hướng ngoại truy cầu, nhưng cũng có đôi phần tốt. Lần thứ hai trở lại triều bái núi Ngũ Đài, tôi gặp quân Nghĩa Hòa Đoàn khởi nghĩa, vào năm 1900.

    Lúc đó, tôi muốn đến Xiểm Tây, nhưng không được. Vừa trở lại Bắc Kinh thì gặp nạn liên quân tám nước vây đánh kinh thành, khiến Hoàng Đế, Hoàng Thái Hậu, cùng hoàng gia trong triều nội phải chạy lánh nạn. Mỗi ngày họ phải chạy bộ cả chục dặm, mà không có kiệu cán. Lúc đến huyện Phụ Bình, liền gặp tướng ở Cam Phiên là Sầm Xuân Huyên, dẫn ba ngàn quân đến hộ giá. Khi đó, tôi theo đoàn hộ giá đến ải Ngọc Môn, rồi qua Nhạn Môn. Nếu là thời bình, thì Hoàng Đế oai nghiêm lẫm liệt. Mỗi lần Hoàng Đế ra khỏi hoàng cung, thì pháo nổ báo hiệu chín lần. Đi trên đường, đều có quân hầu cận. Đường ra vào, không ai dám đi.

    Người người đều cung kính, mà không dám nhìn mặt vua. Lúc chạy tị nạn, Hoàng Đế lăng xăng vội vã, không còn ra vẻ oai nghi lẫm liệt, lại không có kiệu để ngồi; ăn khổ cực cũng được; ai gặp mặt cũng được; thường dân nói chuyện vãn cũng được. Chẳng có gì là tôn quý. Tất cả mọi việc đều xả bỏ được. Sầm Xuân Huyên vốn là quan tuần phủ của tỉnh Xiểm Tây. Khi đó, tại Bắc Kinh, Lý Hồng Chương nghị hòa với liên quân tám nước. Tại cửa Tây Hoa Môn, lập đài kỷ niệm đại sứ người Đức (bị phục kích chết). Liên quân lại yêu cầu phải để tám cái đầu người Tàu tại mộ phần của ông đại sứ người Đức. Sắp xếp mọi việc xong, Lý Hồng Chương liền thỉnh Hoàng Đế trở về Bắc Kinh.

    Lúc ấy, tôi đang ở tại Xiểm Tây, trú nơi chùa Ngọa Long. Từ sáng đến tối, qua lại với quan lại Tể tướng, phiêu bạc trong danh lợi, phiền phiền não não. Công phu có khi được thọ dụng, nhưng cũng có lúc đi đứng nằm ngồi lại bất an. Thường lo sợ vì nếu lỡ nói sai lời thì đầu lìa khỏi xác. Quý vị thấy không! Nơi danh lợi, có chi là tốt đẹp! Vì sợ lụy phiền não, nên phải vào núi Chung Nam, tu hành ẩn danh. Song, ẩn không được, lại phải vào núi Thái Bạch. Núi cao một trăm tám mươi dặm. Trèo lên núi đó, vẫn gặp người khác, nên tôi không thể trụ được, rồi lại chạy đến Vân Nam, muốn làm người vô sự. Chẳng bao lâu, thị phi phiền não lại đến. Thiên hạ chiếm đoạt tài sản tự viện, nên đại chúng thúc tôi lên Bắc Kinh bày tỏ sự tình. Lại thỉnh Kinh Tạng, khiến thêm nhiều thị phi. Nhân vì nhớ tình hộ giá lánh nạn lúc xưa, Hoàng Đế lại ban phát tặng phẩm, khiến tôi phải lọt vào hố danh lợi nữa.

    Vì có liên hệ mật thiết với triều Mãn Thanh, nên lúc chánh phủ Dân Quốc vừa thành lập, tôi trở thành kẻ cừu địch. Tướng Lý Căn Nguyên phái quân vào núi tìm tôi. Trên núi, tổ sư Ca Diếp hiển hiện điềm linh ứng, nên thoát được đại nạn. Sau này, tại Thượng Hải tôi thành lập Tổng Hội Phật Giáo, thiết lập pháp hội Cầu Thế Giới Hòa Bình, Tiêu Tai Miễn Nạn, rồi lại vào kinh đô để gặp Tôn Trung Sơn, Vương Thế Khải. Kế đến, tôi thiết lập phân hội Phật giáo tại vùng Quý Châu, Vân Nam, Tây Tạng. Điên ba đảo bốn, chánh phủ cũ tan rã, chánh quyền mới lên chấp chính. Họ lại nghi tôi là đảng viên của chánh phủ cũ, vì lúc xưa thường qua lại với đảng Quốc Dân tại Trùng Khánh và chủ tịch Lâm Sâm. Sau ba mươi năm, hiệp ước bất bình đẳng ký kết với liên quân tám nước được hủy bỏ. Quân Nhật vừa đầu hàng, Trung Quốc chiến thắng. Lý Nhậm Triều làm tướng đóng doanh trại tại Quế Lâm. Tôi lại vào nơi danh lợi, rối rắm mù mịt, nên dẫn đến hoạn nạn tại Vân Môn.

    Xác thân nát _ Thế giới mất _ Nguyện vẫn còn.

  2. #2
    NỤ Avatar của nguoi ao lam
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    885
    Thanks
    487
    Thanked 474 Times in 127 Posts
    PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂN
    Phần 9
    __________________________________________________ ______________________________________


    Tại Hồ Bắc tôi lại phải xuất đầu, rồi ra bắc vào kinh đô dâng kiến nghị. Vừa rời Bắc Kinh, chánh phủ lại bảo tôi phải trở lại kinh đô. Ngồi trên lưng cọp, chẳng biết nước cờ chết. Hiện tại, họ lại bảo tôi vào kinh nữa. Bộ nội vụ phái người đến mời, mà tôi không đi. Vì họ yêu cầu, nên nhờ hai vị là Từ Tạng và Tánh Phước, đại biểu tôi để ra bắc. Song, hai vị này lại chẳng chịu đi; hôm qua họ gởi thơ đến khước từ. Tâm tôi chán chường. Nhớ lại lời người xưa thường nhắc nhở là chớ chạy vào chốn danh lợi; dẫu ngủ trong núi cũng là điều vi diệu lắm rồi. Song, dầu có hối hận nhưng đầu đã lộ, thì thật vô ích. Người người ai cũng muốn kết giao qua lại với những nhà quyền quý, nhưng họ nào biết phước họa thường đi đôi, như hình với bóng. Xin khuyên quý vị trẻ tuổi, phải nên sớm nỗ lực dụng công, đạo tâm kiên cố, chớ nhiễm thế pháp, cùng nơi trường danh lợi.

    Làm người trên thế gian thật không phải chuyện dễ. Xưa kia, thiền sư Khuê Phong Tông Mật, vốn là đệ tử đời thứ tư của ngài Thần Hội. Ngài có duyên lành với tông Hoa Nghiêm. Vừa xem qua sớ sao của quốc sư Thanh Lương liền tôn sùng trì phụng. Sau này, Ngài làm môn đệ của quốc sư Thanh Lương, rồi trở thành tổ thứ năm của tông Hoa Nghiêm. Khi ấy, quốc gia tôn sùng Phật pháp. Vì ngài Thanh Lương làm quốc sư, nên ngài Khuê Phong cũng được trọng vọng. Do đó, ngài Khuê Phong thường qua lại với các nhân sĩ đại phu. Đương thời, Lý Phác Mạc tạo phản với triều đình, nhưng thất bại, nên chạy đến chùa của ngài Khuê Phong lánh nạn. Vì nghĩ tình thân hữu xưa kia, nên ngài Khuê Phong muốn cho ông ta lưu lại để lánh nạn, nhưng đại chúng trong chùa lại không chuẩn y. Vì vậy, ông Lý Phác Mạc phải rời chùa, nhưng khi đến Phượng Tường lại bị bắt chém. Về sau, Khuê Phong cũng bị bắt vì án quan bảo rằng Ngài qua lại với nghịch thần. Nơi phán đường, ngài Khuê Phong chẳng run sợ, bảo:

    - Đối với oán thân, nhà Phật đều xem bình đẳng. Hể thấy người bị nạn thì phải ra tay cứu giúp. Hôm nay, tôi thật có tội. Vậy hãy y theo pháp luật mà trừng phạt.

    Đại trượng phu luôn có tinh thần vô úy. Có việc gì thì nói rõ việc đó. Khi phạm tội, không chạy trốn hình phạt. Vua quan thấy việc khó xử, nên tha cho Ngài. Sau này, các Phật tử có thành kiến, nên không thích Ngài. Song, cũng có người bảo rằng việc làm và sự đến đi của Ngài phân minh rõ ràng. Chúng ta không có công phu, chí hướng, và lòng can đảm như Ngài. Đời tôi đã từng trải qua bao hiểm nạn gian nguy. Quân lính liên quân tám nước đã từng chĩa súng vào đầu tôi. Khi Lý Căn Nguyên dẫn binh lính vào núi tìm tôi, bảy tám trăm người xuất gia đều bỏ chạy trốn, chỉ còn lại một mình. Tướng quân thổ phỉ là Dương Thiên Phúc và Ngô Học Hiển gặp tôi liền tra khảo đánh đập. Sau này, Đường Kế Phiêu cùng Long Vân khởi chiến sự.

    Tăng chúng chùa Vân Môn bị bắt bớ, nên trách tôi không phân biệt cừu địch hay bạn hữu. Người Dân Quốc trách tôi thường qua lại với Hoàng Đế, quan lại đại thần của triều Mãn Thanh. Làm sao tôi phân rõ ai là bạn, ai là giặc? Họ có phân chia cách nào cũng đúng. Cuối cùng, họ lại tha tội cho tôi. Lần này, tôi không muốn vào kinh đô, nhưng các đệ tử ở khắp nơi gởi thư đến trách rằng tôi không biết thời cuộc, và không đoái hoài gì đến Phật pháp. Nghĩ đến những việc lộn xộn những khi vào kinh đô thuở xưa, nên tôi không muốn đi. Song, dầu không muốn vào kinh cũng chẳng được. Hiện tại mọi việc đã được an bày. Chiếc đại y vẫn được bảo tồn. Quy củ giới luật tại các tùng lâm vẫn còn gìn giữ. Tôi không muốn đi ra bắc nữa, vì tuổi già sức yếu lại thường bịnh hoạn, thân thể đang rã rời. Xin quý vị hãy cẩn trọng!

    (Phụ chú: Xin xem lại tiểu sử và cuộc đời tu hành của ngài Hư Vân trong quyển 'Đường Mây Trên Đất Hoa').

    Xác thân nát _ Thế giới mất _ Nguyện vẫn còn.

  3. #3
    NỤ Avatar của nguoi ao lam
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    885
    Thanks
    487
    Thanked 474 Times in 127 Posts
    PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂN
    Phần 9
    __________________________________________________ ______________________________________


    XXVI. Biểu tướng của Tăng Đồ trong đời mạt pháp

    Người thế tục có câu:

    - Tú tài là tội nhân của Khổng Tử. Tăng sĩ là tội nhân của Phật đà.

    Lời của người xưa thật rất thâm thúy. Làm mất sáu nước là do người của sáu nước, chứ chẳng phải do người nước Tần. Làm nước Tần tan rã là do thân tộc nhà Tần, chứ chẳng do thiên hạ. Diệt Phật pháp là do Tăng sĩ. Hôm nay, để bày tỏ nỗi lòng uẩn khúc, tôi tự hỏi tự đáp những lời như sau.

    Hỏi: Hiện tại có thể sửa đổi năm tháng Phật lịch, tức không dùng mồng tám tháng tư là ngày làm lễ Phật đản sinh được không?

    Đáp: Vận pháp của Phật Thích Ca có ba thời kỳ là Chánh pháp, Tượng pháp, và Mạt pháp. Đời Chánh pháp có một ngàn năm, và đời Tượng pháp cũng có một ngàn năm.

    Mạt pháp có mười ngàn năm. Đời Chánh pháp và Tượng pháp đã qua. Hiện nay là đời Mạt pháp và đã qua chín trăm năm tám mươi hai năm. Thật ra, không có mạt, vì pháp làm sao mạt được? Nếu thường được nhiều người ủng hộ, thì Phật pháp trường tồn muôn năm. Sự tướng có phân biệt là Chánh pháp, Tượng pháp, và Mạt pháp. Song, nếu con người chân chánh thì thời mạt pháp cũng là chánh pháp. Nếu tự sanh thối thất, thì tuy là đời Chánh pháp, nhưng đã trở thành Mạt pháp.

    Kinh Mạt Pháp thuyết rất nhiều biểu tướng suy vi, mà hiện nay đã xuất hiện: Tăng cưới vợ; ni lấy chồng; sắc y ca sa biến thành màu trắng. Người bạch y (cư sĩ) ngồi trên tòa, còn Tỳ kheo ngồi dưới tòa. Lúc con người thọ mạng khoảng ba mươi tuổi, thì pháp Đại Thừa sẽ bị diệt mất. Lúc con người thọ mạng chỉ còn hai mươi tuổi, pháp Tiểu thừa cũng bị diệt luôn. Lúc thọ mạng của con người là mười tuổi, thì chỉ còn sáu chữ "Nam Mô A Di Đà Phật". Trong đời Mạt pháp, tất cả pháp của Phật thuyết ra, đều bị hoại diệt, mà đầu tiên là kinh Lăng Nghiêm, rồi đến kinh Ban Chu Tam Muội. Ví như ông Âu Dương Cảnh Vô dùng kiến giải của mình, viết trăm lời ngụy thuyết, để phản đối bộ kinh Lăng Nghiêm. Tại Hồng Kông, có ông Pháp sư nọ, bảo rằng kinh Hoa Nghiêm, Viên Giác, Pháp Hoa, Đại Thừa Khởi Tín Luận, v.v... đều là ngụy giả. Đây là biểu tướng của đời Mạt pháp.

    Đời quá khứ, Phật Ca Diếp vừa nhập diệt, chư Thiên liền thu góp ba tạng Thánh giáo của Ngài, mà kết thành Tam tạng Kinh điển, rồi lập tháp cúng dường. Trong đời Đường, chư Thiên xuống mách bảo luật sư Đạo Tuyên là thánh giáo tam tạng cùng Kinh tượng của Phật Ca Diếp vẫn còn lưu giữ tại kho tàng thánh tích ở núi Chung Nam, tức Nam Cao Tứ Đài. Hiện tại, có mười ba vị Bồ Tát hàng Viên Giác, đang thủ hộ trong đó. Ngày nay, vào mỗi tháng chạp, dân chúng địa phương thường nghe tiếng chuông khánh vang dội trên hư không.

    Xác thân nát _ Thế giới mất _ Nguyện vẫn còn.

  4. #4
    NỤ Avatar của nguoi ao lam
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    885
    Thanks
    487
    Thanked 474 Times in 127 Posts
    PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂN
    Phần 9
    __________________________________________________ ______________________________________


    Lúc trước, liên hội Phật Giáo Trung Quốc vừa được thành lập. Trong những lần luận nghị, có người bảo Phật pháp đã diệt tận. Thật ra, đó là người Phật tử tự diệt. Chánh phủ không màng Phật tử đã diệt hay không, chỉ phái người đến làm chủ tọa các buổi thảo luận. Trong những buổi thảo luận, có các Phật tử phân vân rối rít bàn tán rằng trong Kinh giáo, có các bộ Kinh hại chết rất nhiều thanh niên nam nữ như kinh Phạm Võng, Tứ Phần Luật, Bá Trượng Thanh Quy, nên phải hủy diệt thủ tiêu. Họ lại bảo rằng ba y ca sa, vốn là áo quần của dân chúng đời Hán, chứ chẳng phải là Tăng y. Hiện tại, Tăng sĩ nên cải cách, chẳng cần đắp ba bộ ca sa. Nếu vẫn còn đắp mặc, tức là bảo thủ phong kiến, chống đối lại chế độ mới. Họ lại bảo rằng vì tín giáo tự do, nên Tăng Ni có quyền tự do lập gia đình, ăn thịt uống rượu. Vừa nghe qua những lời ngược ngạo, tà tri tà kiến, tôi phản đối dữ dội, chẳng nệ hà họ là người gì. Họ lại không thừa nhận ngày Phật đản sinh là mồng tám tháng tư. Tôi liền căn cứ theo bổn pháp nội truyền, cùng những lời đối đáp giữa pháp sư Ma Thắng và vua Minh Đế để cải chánh như sau:

    - Phật Thích Ca Mâu Ni giáng sanh vào mồng tám tháng tư, thuộc năm Giáp Dần, tức nhằm đời Chu Chiêu Vương thứ hai mươi bốn tại Trung Thổ.

    Theo sách vở đời Ngụy, sa môn Đàm Mô Tối bảo:

    - Phật giáng sanh vào mồng tám tháng tư năm thứ hai mươi bốn của triều vua Chu Chiêu Vương, và nhập diệt vào ngày mười lăm tháng hai năm thứ năm mươi hai của triều vua Mục Vương. Năm tháng Phật đản sanh và nhập Niết Bàn, hầu hết các triều đại quân chủ đều tuân phụng như nhau mà không sửa đổi.

    Đời vua Chu Chiêu Vương, năm Giáp Dần, cách ngày nay (1952) khoảng hai ngàn chín trăm tám mươi hai năm. Hiện tại, họ muốn sửa thành hai ngàn năm trăm lẻ hai năm. Ông Khổng Tử vốn sanh sau Phật, nhưng họ lại muốn sắp đặt ngày sanh của Khổng Tử trước Phật. Trong buổi hội nghị đó, tôi cùng họ tranh luận về Giới luật, niên hiệu, Tăng y và bảo rằng không thể hủy hoại. Hai tôn giả Mã Thắng và Trúc Pháp Lan đem giáo lý của Phật đà từ Thiên Trúc sang Trung Thổ. Khi đó, Phật mới vừa diệt độ. Đương thời, phía Đông chùa Bạch Mã có ánh sáng lạ kỳ chiếu vào ban đêm. Tôn giả Mã Thắng bảo rằng xưa kia vua A Dục đã từng sai người mang Xá lợi của Phật đặt để nơi đó. Nghe điều này, vua Minh Đế liền sai người dựng tháp cúng dường. Bấy giờ Tăng sĩ cùng đạo sĩ thi thiết pháp thuật. Tôn giả Mã Thắng hiện thần thông biến hóa quảng đại, phi thân trên không trung.

    Ngài Trúc Pháp Lan xuất đại pháp âm, tuyên dương Phật pháp. Thần thông trí huệ diệu dụng của hai tôn giả, dầu kể suốt bao năm tháng cũng không thể hết. Chư cao tăng sau này như ngài Cưu Ma La Thập, Huyền Trang, Đạo Tuyên, v.v... tuy thuyết pháp bao ngôn từ, mà không bao giờ xác quyết sửa đổi cải biến ngày Phật đản sinh. Vào năm Dân Quốc thứ hai, cư sĩ Chương Thái Đàm cùng các vị khác, chiêu tập khai mở đại pháp hội Vô Giá tại chùa Pháp Nguyên, Bắc Kinh. Trong lần đó, họ cũng thảo luận về ngày Phật đản sinh, và đồng nghị quyết rằng mồng tám tháng tư là ngày Phật đản sinh. Hiện tại, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều dùng dương lịch. Song, chánh phủ cũng chưa bảo rằng Phật giáo đồ nên sửa đổi từ âm lịch sang dương lịch.

    Tôi chủ trương là chúng ta phải ứng dụng theo Phật Lịch, vậy có được hay không? Đó là tôn kính giới luật và giáo pháp của bậc cổ nhân, mà không thể sửa đổi. Họ lại ương ngạnh bảo rằng mồng tám tháng hai, mồng tám tháng tư, ngày mười lăm tháng hai, vốn là ngày kỷ niệm tổ tiên. Họ muốn đổi ngày Phật đản sinh từ mồng tám tháng tư qua rằm tháng tư. Kinh Phạm Võng thuộc thời Hoa Nghiêm và Tứ Phần luật thuộc thời A Hàm. Họ đều muốn hủy bỏ. Thanh Quy của Tổ Bá Trượng, từ đời Đường cho đến ngày nay, thiên hạ đều phụng hành, mà họ lại muốn sửa đổi. Tăng y ca sa từ đời Hán đến nay, họ cũng muốn cải đổi. Quý vị xem coi, có phải là đời mạt pháp không? Vì vậy, tôi phải tranh luận với họ, mà bảo rằng nếu các ông muốn cải đổi thì phải tự cải đổi chính mình.

    Xác thân nát _ Thế giới mất _ Nguyện vẫn còn.

  5. #5
    NỤ Avatar của nguoi ao lam
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    885
    Thanks
    487
    Thanked 474 Times in 127 Posts
    PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂN
    Phần 9
    __________________________________________________ ______________________________________


    Phật đà vốn là người Ấn Độ. Ở Ấn Độ, một năm chia làm ba quý. Mỗi quý là bốn tháng. Nước Tàu mỗi năm chia làm bốn quý. Mỗi quý chia làm ba tháng. Nước Tàu có phân hiệu niên giáp, mà nước Ấn Độ lại không có. Vì vậy, chớ nên hàm đồ thay triều đổi niên đại không rõ ràng. Ngài Huyền Trang ở Ấn Độ mười tám năm, mà chưa từng xác định niên đại. Trải qua hơn hai ngàn năm, người xưa thường cử hành lễ Phật đản vào mồng tám tháng tư. Nếu sửa đổi thì rất bất tiện. Chúng ta là ai, mà lại dám tự sửa đổi?

    Tôi bàn luận với Lý Nhậm Triêu là những Phật tử xấu xa này, muốn cải đổi giáo chế của Phật đà. Nếu chánh phủ không tự chủ, dung túng những kẻ này, tạo những việc xằng bậy, thì Phật tử quốc tế sẽ sanh tâm hồ nghi.

    Đối với những kẻ manh tâm xằng bậy cải đổi quy chế giới luật Phật giáo, Lý Nhậm Triêu cùng các người khác khuyên tôi hãy nên nhẫn nhục với họ. Chánh phủ thấy việc tranh cãi lộn xộn, liền hỏi han về lý do muốn sửa đổi giới luật quy chế Phật giáo. Có người bảo rằng tăng ni phải nên mặc y hoại sắc. Chánh phủ hỏi rằng y hoại sắc là như thế nào? Năng pháp sư đáp rằng ca sa vốn là y hoại sắc, còn những y phục khác thì không phải. Mọi người nghe lời phân trần rõ ràng này, quyết định giữ lại y ca sa hoại sắc, hủy bỏ ý kiến của những kẻ muốn cải đổi Tăng bào. Tôi bảo rằng lời nói của Năng pháp sư là không sai. Tiếng Phạn gọi là Ca Sa. Tiếng Tàu gọi là y hoại sắc. Y ca sa có ba loại là y năm điều, y bảy điều, và đại y. Lại có một khỏa y và một cái quần. Chư tăng Ấn Độ dùng ba y và một cái quần tức là y khố chúng ta đang mặc ở nước Tàu.

    Những y ca sa và quần này luôn luôn mặc trên thân. Ngủ cũng mặc, mà chết cũng không rời. Tại Ấn Độ khí hậu nóng nực nên chỉ cần có ba y ca sa là đủ. Tại Tàu khí hậu lạnh lẽo, nên trong mình còn phải mặc thêm y phục thế tục, nhưng không được mặc y phục có nhiều màu sắc rực rỡ, mà phải nhuộm thành y hoại sắc. Nếu đi ra ngoài làm việc Phật sự thì phải đắp y ca sa. Y ca sa không thường đắp, nên khiến người nhìn khởi tâm tôn kính. Các triều đại như Tống, Kim, Nguyên đều sửa đổi y phục khác với đời Hán. Tăng nhân đến hôm nay vẫn chưa từng sửa đổi, tức dùng y ca sa đời Hán làm Tăng y. Đó gọi là đại y ca sa, cũng là y hoại sắc. Nếu cho rằng mặc loại y ca sa này khiến đi đứng bị hạn chế, thì không nên cải đổi. Nếu cải đổi Tăng y thì ranh giới giữa Tăng nhân kẻ tục khó phân định. Nghe những lời tôi phân trần, chánh phủ đồng ý tán trợ, và lại bảo rằng Phật luật Tổ quy không thể sửa đổi, mà phải giữ gìn bảo hộ.

    Sau đó, chánh phủ gọi tôi vào kinh đô, tiếp đãi các thân hữu Phật giáo quốc tế.

    Tạm cáo kết cuộc. Quý vị thấy không, có phải là Tăng sĩ tự hủy hoại Phật pháp chăng? Lão già Hư Vân này vô lực khuông phò Phật pháp. Ngưỡng vọng đoàn thể Tăng già chánh tri kiến, đồng tránh khỏi những phong ba bão táp, thì Phật pháp mới không bị hủy diệt.

    Xác thân nát _ Thế giới mất _ Nguyện vẫn còn.

  6. #6
    NỤ Avatar của nguoi ao lam
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    885
    Thanks
    487
    Thanked 474 Times in 127 Posts
    PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂN
    Phần 9
    __________________________________________________ ______________________________________


    XVII. Mười hai bài kệ tham thiền

    "Tham thiền chẳng huyền bí "Tham thiền không học vấn

    Thể hội tận căn nguyên Học vấn tăng thấy nghe

    Ngoài tâm chẳng có pháp Ảnh hưởng không kham truyền

    Sao bảo trời ngoài trời". Ngộ đến dư là thừa".

    "Tham thiền không nghe nhiều "Tham thiền chớ nói rỗng

    Nghe nhiều thành thiền bịnh Người nói khách ngoài cửa

    Thương thay Quán Thế Âm Nhiều vị bảo đạt thiền

    Nghe lại tự tánh mình". Chứng rùa thành ba ba".

    "Tham thiền không nên nói "Tham thiền tham tự tánh

    Lúc nói không chỗ che Nơi nơi thường tùy thuận

    Lúc chứng bằng hư không Lại chẳng giả mài giũa

    Nói bụi cùng thuyết trần". Gốc vốn thường thanh tịnh".

    "Tham thiền như tìm báu "Tham thiền pháp thức tu

    Lúc vào núi nhà tìm Bảo quyết khỏi sanh tử

    Gặp kho hiện trước mặt Tử tế đưa lên xem

    Nhất định sẽ liễu đạo". Cười ngã lão Hàn Sơn".

    "Tham thiền phải nghi nhiều "Tham thiền không nói thiền

    Nghi lớn tuyệt đường rẽ Chỉ mê mới thuyết thiền

    Đạp đổ Diệu Cao Phong Tâm này nếu chưa ngộ

    Thì trời bay đất đổ". Phải gấp mau tham thiền".

    "Tham thiền không thân sơ "Tham thiền không giai cấp

    Mới là trân gia bảo Mau siêu lên đất Phật

    Mắt tai thân mũi lưỡi Tích trượng vừa đưa lên

    Diệu dụng thật khó bàn" Liền thấy nghĩa đệ nhất".


    Xác thân nát _ Thế giới mất _ Nguyện vẫn còn.

  7. The Following User Says Thank You to nguoi ao lam For This Useful Post:

    gaiden (06-22-2019)

  8. #7
    NỤ Avatar của nguoi ao lam
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    885
    Thanks
    487
    Thanked 474 Times in 127 Posts
    PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂN
    Phần 9
    __________________________________________________ ______________________________________


    Phụ chú

    1/ Đại lão HT. Hư Vân tiếp nối mạch nguồn năm phái Thiền

    Vào mùa hè năm giáp tuất, có các trưởng lão và cư sĩ từ núi Quy Sơn đến gặp Ngài ở tại chùa Nam Hoa, như trưởng lão Nam Ngạc Bảo Sanh, thủ tọa Cửu Thành Liễu Chiếu, cư sĩ Tế Khoan Huệ ở thành Trường Sa, v.v... Họ là những vị tuổi cao lạp lớn, được chư sơn trưởng lão cung kính tín nhiệm. Vì thấy tông môn không có người thừa kế, tổ đình xiêu sụp, hoang tàn, họ đồng quyết định, đến thỉnh mời Ngài qua núi Quy Sơn để trùng tu tự viện, cùng kế thừa và phục hồi tông Quy Ngưỡng, hầu mong mạch pháp năm tông phái của Thiền tông được nối tiếp dài lâu. Vì thật khó từ chối, nên Ngài phải nhận lời. Tra cứu kỹ càng, nhận biết tông này do tổ Linh Hựu khai sáng, rồi truyền đến đời thứ tư, thiền sư Tư Phúc Như Bảo.

    Từ đó, tận hết hai mươi chữ truyền tông Quy Ngưỡng. Cuối cùng là chữ "Diệu", rồi không còn chữ nào tiếp dòng truyền. Song, theo sử sách thì dòng Quy Ngưỡng vẫn còn truyền đến hai ngài Tam Ngư Chí Khiêm và Hưng Dương Từ Đạt thuộc đời Tống, thì ngừng. Có thuyết nói rằng hai ngài là anh em, đồng thừa kế mạch phái từ thiền sư Báo Từ Đức Thiều, làm tổ thứ sáu của dòng Quy Ngưỡng. Có thuyết nói rằng thiền sư Chí Khiêm làm vị tổ thứ sáu, còn thiền sư Từ Đạt thì làm tổ thứ bảy. Hệ phái Quy Ngưỡng truyền thừa rất ít. Vì vậy, sau này không có chỗ căn cứ để kiểm nghiệm. Song, Ngài ghép nối pháp danh của thiền sư Từ Đạt với mình để trích diễn ra năm mươi chữ truyền tông phái, hầu mong hậu hiền tiếp nối không đứt đoạn. Kệ viết:

    "Từ đức tuyên diễn đạo đại hưng

    Giới đỉnh hình biến ngũ phân tân

    Huệ diễm di bố châu sa giới

    Hương vân phổ ấm xán cổ kim

    Từ bi tế thế nguyện vô tận

    Quang siêu nhật nguyệt lãng thái thanh

    Chấn khai điểm hoa hoằng quy thượng

    Viên tướng tâm đăng vĩnh xương minh".


    Dịch:

    "Từ đức tuyên diễn hưng đại đạo

    Hương giới tràn đầy khắp năm phần

    Đuốc huệ chiếu soi khắp pháp giới

    Mây hương bao trùm sáng cổ kim

    Từ bi cứu thế nguyện vô tận

    Sáng hơn nhật nguyệt trong xanh thẳm

    Cầm hoa chấn khai, hoằng Quy Ngưỡng

    Đuốc tâm tròn đầy mãi sáng soi".


    Xác thân nát _ Thế giới mất _ Nguyện vẫn còn.

Thông tin chủ đề

Users Browsing this Thread

Hiện có 1 người đọc bài này. (0 thành viên và 1 khách)

Quyền viết bài

  • Bạn không thể gửi chủ đề mới
  • Bạn không thể gửi trả lời
  • Bạn không thể gửi file đính kèm
  • Bạn không thể sửa bài viết của mình
  •