PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂNPhần 9__________________________________________________ ______________________________________
Nói xong, Ngài đi tắm rửa cạo đầu. Đến tối, Ngài gọi các đệ tử như Huệ Âm, v.v..., bảo:
- Tánh thấy, nghe, hiểu, biết của các ngươi, thọ lượng đồng thái dương hư không, vốn không sanh không diệt. Tất cả cảnh giới, đều vốn tự Không-tịch. Không có pháp nào để chứng đắc. Kẻ ngu không liễu đạt, do cảnh làm mê hoặc. Một khi bị cảnh mê hoặc, thì lưu chuyển không cùng tận. Các ngươi nên biết, tâm tánh vốn tự có, chớ chẳng do tạo tác, ví như kim cương, không thể bị phá hoại. Tất cả các pháp, như bóng như âm hưởng, không có chi là thật cả. Kinh thuyết: "Chỉ có một sự thật. Còn hai tức chẳng phải chân. Thường hiểu tất cả đều là không, thì chẳng lụy tình đến vật chi". Đây là nơi dụng tâm của chư Phật. Các ngươi phải tinh cần hành theo.
Nói xong, Ngài ngồi xếp bằng mà thị tịch. Ngày làm lễ trà tỳ, mây ngũ sắc hóa hiện, mùi hương lạ vi diệu bay khắp bốn phương. Xá lợi của Ngài, sáng chói như châu ngọc. Vì không thích đến những nơi chợ búa lợi danh, mà tâm hoàn toàn tại đạo, nên Ngài đến đi tự do tự tại, chẳng hề bị sanh tử xoay chuyển. Người đời thì khác biệt.
Đời tôi rất khổ đau, nhiều nạn nhiều chướng, nhiều quỷ nhiều bịnh. Bao năm lừa lẫn ăn uống nơi cửa Không. Vào nam ra bắc, nên nay tâm rất hổ thẹn. Khi vừa sanh ra, mẹ tôi liền tạ thế. Tôi bất hiếu như thế; e sợ Thiên lôi đánh chết, nên phát tâm vì mẹ mình mà tạo công đức, bằng cách lễ bái xá lợi Phật, triều bái núi Ngũ Đài để cầu ngài Văn Thù Sư Lợi gia hộ cho mẹ hiền. Tuy những việc đó chỉ là hướng ngoại truy cầu, nhưng cũng có đôi phần tốt. Lần thứ hai trở lại triều bái núi Ngũ Đài, tôi gặp quân Nghĩa Hòa Đoàn khởi nghĩa, vào năm 1900.
Lúc đó, tôi muốn đến Xiểm Tây, nhưng không được. Vừa trở lại Bắc Kinh thì gặp nạn liên quân tám nước vây đánh kinh thành, khiến Hoàng Đế, Hoàng Thái Hậu, cùng hoàng gia trong triều nội phải chạy lánh nạn. Mỗi ngày họ phải chạy bộ cả chục dặm, mà không có kiệu cán. Lúc đến huyện Phụ Bình, liền gặp tướng ở Cam Phiên là Sầm Xuân Huyên, dẫn ba ngàn quân đến hộ giá. Khi đó, tôi theo đoàn hộ giá đến ải Ngọc Môn, rồi qua Nhạn Môn. Nếu là thời bình, thì Hoàng Đế oai nghiêm lẫm liệt. Mỗi lần Hoàng Đế ra khỏi hoàng cung, thì pháo nổ báo hiệu chín lần. Đi trên đường, đều có quân hầu cận. Đường ra vào, không ai dám đi.
Người người đều cung kính, mà không dám nhìn mặt vua. Lúc chạy tị nạn, Hoàng Đế lăng xăng vội vã, không còn ra vẻ oai nghi lẫm liệt, lại không có kiệu để ngồi; ăn khổ cực cũng được; ai gặp mặt cũng được; thường dân nói chuyện vãn cũng được. Chẳng có gì là tôn quý. Tất cả mọi việc đều xả bỏ được. Sầm Xuân Huyên vốn là quan tuần phủ của tỉnh Xiểm Tây. Khi đó, tại Bắc Kinh, Lý Hồng Chương nghị hòa với liên quân tám nước. Tại cửa Tây Hoa Môn, lập đài kỷ niệm đại sứ người Đức (bị phục kích chết). Liên quân lại yêu cầu phải để tám cái đầu người Tàu tại mộ phần của ông đại sứ người Đức. Sắp xếp mọi việc xong, Lý Hồng Chương liền thỉnh Hoàng Đế trở về Bắc Kinh.
Lúc ấy, tôi đang ở tại Xiểm Tây, trú nơi chùa Ngọa Long. Từ sáng đến tối, qua lại với quan lại Tể tướng, phiêu bạc trong danh lợi, phiền phiền não não. Công phu có khi được thọ dụng, nhưng cũng có lúc đi đứng nằm ngồi lại bất an. Thường lo sợ vì nếu lỡ nói sai lời thì đầu lìa khỏi xác. Quý vị thấy không! Nơi danh lợi, có chi là tốt đẹp! Vì sợ lụy phiền não, nên phải vào núi Chung Nam, tu hành ẩn danh. Song, ẩn không được, lại phải vào núi Thái Bạch. Núi cao một trăm tám mươi dặm. Trèo lên núi đó, vẫn gặp người khác, nên tôi không thể trụ được, rồi lại chạy đến Vân Nam, muốn làm người vô sự. Chẳng bao lâu, thị phi phiền não lại đến. Thiên hạ chiếm đoạt tài sản tự viện, nên đại chúng thúc tôi lên Bắc Kinh bày tỏ sự tình. Lại thỉnh Kinh Tạng, khiến thêm nhiều thị phi. Nhân vì nhớ tình hộ giá lánh nạn lúc xưa, Hoàng Đế lại ban phát tặng phẩm, khiến tôi phải lọt vào hố danh lợi nữa.
Vì có liên hệ mật thiết với triều Mãn Thanh, nên lúc chánh phủ Dân Quốc vừa thành lập, tôi trở thành kẻ cừu địch. Tướng Lý Căn Nguyên phái quân vào núi tìm tôi. Trên núi, tổ sư Ca Diếp hiển hiện điềm linh ứng, nên thoát được đại nạn. Sau này, tại Thượng Hải tôi thành lập Tổng Hội Phật Giáo, thiết lập pháp hội Cầu Thế Giới Hòa Bình, Tiêu Tai Miễn Nạn, rồi lại vào kinh đô để gặp Tôn Trung Sơn, Vương Thế Khải. Kế đến, tôi thiết lập phân hội Phật giáo tại vùng Quý Châu, Vân Nam, Tây Tạng. Điên ba đảo bốn, chánh phủ cũ tan rã, chánh quyền mới lên chấp chính. Họ lại nghi tôi là đảng viên của chánh phủ cũ, vì lúc xưa thường qua lại với đảng Quốc Dân tại Trùng Khánh và chủ tịch Lâm Sâm. Sau ba mươi năm, hiệp ước bất bình đẳng ký kết với liên quân tám nước được hủy bỏ. Quân Nhật vừa đầu hàng, Trung Quốc chiến thắng. Lý Nhậm Triều làm tướng đóng doanh trại tại Quế Lâm. Tôi lại vào nơi danh lợi, rối rắm mù mịt, nên dẫn đến hoạn nạn tại Vân Môn.