DIỄN ĐÀN PHẬT PHÁP THỰC HÀNH - Powered by vBulletin




Cùng nhau tu học Phật pháp - Hành trình Chân lý !            Hướng chúng sinh đi, hướng chúng sinh đi, để làm Phật sự không đối đãi.


Tánh Chúng sinh cùng Phật Quốc chỉ một,
Tướng Bồ Đề hóa Liên hoa muôn vạn.

Trang 16/20 ĐầuĐầu ... 61415161718 ... CuốiCuối
Hiện kết quả từ 151 tới 160 của 196
  1. #151
    NỤ Avatar của nguoi ao lam
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    885
    Thanks
    487
    Thanked 474 Times in 127 Posts
    PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂN
    Phần 8
    __________________________________________________ ______________________________________


    PHẦN VIII


    33/ Mồng hai tháng sáu

    Sau khi Phật diệt độ, pháp trụ thế gian có ba giai đoạn: Chánh pháp một ngàn năm. Tượng pháp một ngàn năm. Mạt pháp mười ngàn năm. Luận Thiện Kiến nói: "Vì cho người nữ xuất gia, chánh pháp chỉ còn năm trăm năm. Do Thế Tôn chế Tỳ kheo ny hành tám pháp cung kính, nên chánh pháp lại trụ được ngàn năm".

    Hỏi: Ngàn năm đã qua. Vậy chánh pháp đã bị diệt hết chưa?

    Đáp: Chưa diệt hết. Trong một ngàn năm, tu đắc được quả Tam Đạt Trí. Ngàn năm sau, đắc được quả A La Hán, tức Vô Tam Đạt Trí, tận trừ ái dục. Ngàn năm kế, đắc được A Na Hàm. Ngàn năm nữa, đắc được Tư Đà Hàm. Ngàn năm cuối, đắc được Tu Đà Hoàn. Năm ngàn năm đầu, đắc được đạo. Năm ngàn năm sau, tuy học mà không thể đắc được đạo. Sau mười ngàn năm, tất cả Kinh thư văn tự đều bị diệt hết, nhưng vẫn còn người cạo tóc đắp y ca sa.

    Ngài Quy Sơn nói:

    - Hận cho mình sanh nhằm thời tượng pháp, cách Thánh giáo quá xa.

    Ngài Quy Sơn sanh vào đời Đường, cách Phật hơn một ngàn năm, tức thuộc thời tượng pháp. Tất cả sự việc đều biến chuyển. Nước để lâu ngày khiến có trùng. Pháp giữ lâu ngày khiến sanh tệ hại.

    Kinh Phó Pháp Tạng ghi: "Những chúng sanh có duyên lành, tỳ kheo A Nan đều giáo hóa cho họ được giải thoát. Cuối cùng, Ngài đến giữa rừng trúc, nghe tiếng một tỳ kheo tụng kinh Pháp Cú đến đoạn "Người sống trăm năm, nếu không thấy hạc thủy lạo, thì không bằng sống một ngày, mà đắc được đạo".

    Ngài A Nan nghe thế, bèn than thở thảm thương, và đến bảo tỳ kheo kia:

    - Mắt sáng thế gian, sao diệt quá sớm! Các việc ác và phiền não, sao mau khởi vậy? Từ đây, bội phản Thánh giáo, tự sanh vọng tưởng. Đây chẳng phải là lời Phật dạy, nên chớ hành theo... Ông hãy lắng nghe cho kỹ, Ta sẽ đọc lại bài kệ của Phật dạy: "Người sống trăm tuổi, nếu không hiểu pháp sanh diệt, chẳng bằng sống một ngày, mà đắc được đạo".

    Sau này, Tỳ kheo kia thuật lại lời của ngài A Nan cho thầy của ông ta nghe. Thầy ông liền bảo:

    - Lão già A Nan trí huệ cạn cợt, nhiều lời sai lầm, không thể tin được. Cứ tụng theo câu kệ vừa rồi của Ta.

    Khi trở lại nơi đó, ngài A Nan vẫn nghe Tỳ kheo kia tụng câu kệ lúc trước... Do không thấy ai có thể lãnh hội ý mình, Ngài liền nhập Tam muội, bảo:

    - Lạ thay! Vô thường quá gấp, kiếp hoại nổi hừng hực. Vô lượng chúng sanh nơi thế gian thường lang thang, trú trong đêm dài tăm tối, đi trong đường hãi hùng; tà kiến hừng thịnh, pháp bất thiện tăng trưởng; phỉ báng Như Lai, đoạn tuyệt Thánh giáo; mãi nhập bùn lầy sông lớn sanh tử, khai mở cửa ác thú, đóng bít đường Trời Người; nơi vô lượng kiếp, thọ muôn ngàn khổ não. Hôm nay, Ta muốn nhập Niết Bàn !

    Kinh Lăng Nghiêm thuyết: "Trong thời đại mạt pháp, tà sư thuyết pháp nhiều như số cát sông Hằng. A Nan ông nên biết, đây là mười loại ma. Nơi đời mạt thế, chúng xuất gia tu đạo, nhập vào giáo pháp Ta. Hoặc tự phụ khiến người lễ bái, hoặc tự hiện hình quái lạ, hoặc tự bảo rằng đã chứng chánh biến tri, rồi tán thán dâm dục, phá hoại luật nghi. Đầu tiên, các ác ma sư cùng ma đệ tử, dâm dâm tương truyền. Tà tinh như thế, mê mị lòng người, gần chín lần sanh, hơn trăm thế hệ, khiến người tu hành chân thật, bị mê hoặc, làm quyến thuộc của chúng. Sau khi mạng chung, tất làm dân ma, mất Chánh biến tri, đọa Địa ngục Vô gián".

    Trong kinh nói đến chín lần sanh, và một trăm đời. Một lần sanh là một trăm năm. Mỗi thế hệ là ba mươi năm. Hiện nay, Phật lịch là 2982, cũng là lúc Ma vương trăm đời xuất hiện.

    Phật diệt độ chẳng lâu, Tỳ kheo kia tụng lầm kệ Hạc Thủy Lạo, mà cho đó là Kinh Pháp Cú. Ngày nay, người học Phật lại lầm lạc càng nhiều. Hạc thủy lạo tức con hạc trắng. Người xem thấy chúng, có biết ý nghĩa gì! Hiểu rõ pháp sanh diệt, khiến rời xa biển khổ. Sống một trăm năm mà chẳng liễu giải, không bằng sống chỉ một ngày mà được liễu giải. Thế nên, người có trí huệ, không luận bàn tuổi tác cao thấp. Người không trí huệ, sống lâu trăm năm cũng vô ích.

    Tà sư đời mạt thế, mỗi mỗi tự bảo mình là thiện tri thức. Người đang tham thiền, nếu không nhận ra vàng hay đá, liền bị sóng tà nhận chìm. Thấy cảnh mênh mông, liền tàn hoại rừng công đức. Lửa tâm cháy phừng phực, đốt rụi hạt giống Bồ Đề. Người cầu đạo chân thật trong đời mạt thế rất hiếm có. Ngài Quy Sơn nói:

    - Đi xa phải chọn bạn hiền. Mắt tai phải thường thanh tịnh. Lúc dừng phải chọn lựa bạn lành, thời thời tuy nghe nhưng vẫn như không nghe... Sanh ta ra là cha mẹ. Ta thành công là nhờ bạn hữu. Gần gũi bạn lành, như đi trong sương, tuy không ướt y nhưng dần dần sẽ thấm.

    Khổng Tử cũng nói:

    - Ba người đồng hành, chắc sẽ có người làm thầy Ta. Bạn lành nên theo. Bạn xấu nên lánh xa.

    Bạn tốt thì theo họ học. Kẻ có nhiều tật xấu, thường không đoái hoài lo gì đến ai; nếu gần gũi họ, lâu ngày sẽ bị thúi lây. Gần màu đỏ thì lấm màu đỏ. Gần màu đen thì lấm màu đen. Gần hương thơm thì nhiễm hương thơm. Gần mùi thúi thì nhiễm mùi thúi. Lời thô tế ngữ của bạn lành, nếu quy về đệ nhất nghĩa, thì phải nên thân cận. Người tu hành trong đời mạt pháp, như bản lãnh của chúng ta đây, không thể sánh bằng thiên ma ngoại đạo.


    Xác thân nát _ Thế giới mất _ Nguyện vẫn còn.

  2. #152
    NỤ Avatar của nguoi ao lam
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    885
    Thanks
    487
    Thanked 474 Times in 127 Posts
    PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂN
    Phần 8
    __________________________________________________ ______________________________________


    Kinh Lăng Nghiêm thuyết: "Sắc ấm diệt tận rồi, thì từ trong thân người kia, xuất hiện côn trùng, thân thể nhỏ nhít, nhưng không tổn hại đến thân. Lúc đó, đột nhiên mười phương hư không biến ra màu sắc bảy báu, hoặc màu sắc trăm báu, và đồng thời hiện ra khắp nơi, mà không ngăn ngại nhau. Đột nhiên vào giữa đêm, ngay trong am thất u ám, thấy muôn loại vật. Thọ ấm diệt hết rồi, thì quán đến cảnh giới của mười loại thiền na, gọi là năm mươi loại ấm ma. Mê mà không nhận thức, tự xưng là chứng quả Thánh, tức tạo tội đại vọng ngữ, sẽ bị đọa Địa ngục Vô gián".

    Lão Tử nói:

    - Trong đó có tinh.

    Khổng Tử cũng nói:

    - Không không như thế.

    Tức là họ đã thấy rõ thức ấm. Đối với chư A La Hán, năm ấm đã trừ tận, nên vượt ra khỏi ba cõi. Đối với chúng ta, sắc ấm chưa tận, nên rất cách xa đạo.

    Tôi rất xấu hổ vì nhiều năm ngu si hơn quý vị, và chỉ có hư danh. Quý vị cho rằng tôi có rất nhiều sở trường, nên xem tôi như bậc tổ sư. Thật rất khổ sở! Tôi chẳng giống như Yêu Ma Quỷ Quái trong Kinh Lăng Nghiêm hay chư đại Tổ Sư.

    Mỗi lần giảng dạy tham thiền học đạo, tôi thường nhắc nhở quý vị là phải tham tầm bậc minh nhãn Thiện tri thức, lại cũng phải có đôi tai thính, để khi nghe pháp, phân biệt được chánh tà. Kế đến, dùng cái thấy cái nghe mà bỏ vào bao tử, để lúc tu đạo không đi lạc đường, và không hành như những kẻ đang sống trong thị phi được mất, hầu mong không phản bội bổn hoài của các vị thiện tri thức.

    Hiện tại vốn là đời mạt pháp. Làm sao tìm cầu Thiện tri thức? Chỉ cần học thuộc lòng Kinh Lăng Nghiêm, thì tu hành mới có phần tương ưng, tiêu diệt tà duyên, khiến thân tâm nhập Phật tri kiến. Từ sự thành tựu này, khiến không đi lạc đường. Toàn bộ Kinh, từ đầu đến cuối đều thuyết quan trọng nhất tại một chữ "Dâm". Kinh nói: "Nơi các thế giới, nếu chúng sanh trong sáu đường, tâm chẳng khởi dâm dục, thì sẽ không bị sanh tử tương tục lôi cuốn. Ông tu Tam muội, đó là cội gốc xuất khỏi trần lao. Tâm dâm dục nếu chưa trừ diệt, thì không thể thoát khỏi trần lao. Nếu kẻ nhiều trí huệ, lại có thiền định hiện tiền, mà không đoạn tâm dâm dục, tất sẽ đọa lạc Ma đạo".

    Xem Kinh Lăng Nghiêm, nếu không quay về tông Thiền, thì chỉ như cỡi ngựa ngắm hoa, thật không lợi ích. Phải nên đọc tụng thuộc làu, rồi có thể dùng lời văn sau để giải lời văn trước, và dùng lời văn trước mà quán thông lời văn sau. Lời văn trước và sau, tương hỗ ứng chiếu, thì nghĩa lý của toàn bộ Kinh, sẽ hiện rõ ràng trước mắt. Y theo lời Kinh mà quán tưởng, thì sẽ đắc được thọ dụng.

    Các vị tu hành xưa nay ngộ đạo do từ Kinh này rất nhiều. Thiền sư Tiên Nham An ở Ôn Châu nhân xem qua đoạn "trong tri kiến mà còn lập thêm tri kiến, tức là gốc của vô minh. Trong cái tri kiến mà không có tri kiến, tức đây là Niết bàn" tức nghĩa là tri kiến vừa lập, bèn là gốc vô minh. Nếu không lập tri kiến thì cảnh giới đó là Niết Bàn. Ngay nơi đó, Tiên Nham An liền ngộ đạo. Người sau bảo thiền sư:

    - Ngài đã phá câu kệ tụng rồi.

    Ngài đáp:

    - Đây chính là chỗ ngộ đạo của tôi!

    Người đời gọi Ngài là "An Lăng Nghiêm".

    Hy vọng quý vị đồng tham học, vô luận là già hay trẻ, phải thường đọc tụng Kinh Lăng Nghiêm. Bộ Kinh này là vị Thiện tri thức tùy thân của quý vị. Đọc tụng thuộc lòng bộ Kinh này, tức là quý vị thường được nghe đức Thế Tôn thuyết pháp, và làm bạn đồng học với ngài A Nan.


    Xác thân nát _ Thế giới mất _ Nguyện vẫn còn.

  3. #153
    NỤ Avatar của nguoi ao lam
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    885
    Thanks
    487
    Thanked 474 Times in 127 Posts
    PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂN
    Phần 8
    __________________________________________________ ______________________________________


    34/ Mồng ba tháng sáu

    Người xưa bảo:

    - Chớ đợi đến già mới học đạo. Mộ phần đầy cả thiếu niên!

    Lúc đến tuổi già, bị trăm thứ bịnh khổ. Tai không nghe được. Mắt không thấy rõ. Bốn cơ chi không còn sức lực. Ăn không được, ngủ không yên, đi không nổi. Những nỗi khổ này, người trẻ chưa nếm qua. Lúc trẻ, tôi cũng giống như quý vị, thấy các người già đến, đều không thích. Nói chuyện, họ không nghe rõ. Nước mắt nước mũi chảy lê thê, nhìn trông gớm ghê, nên rất sợ sống chung với họ. Hiện tại, tôi đã già nên biết cái khổ của người già. Đối với người già, ngày này luôn khác với ngày nọ.

    Từ khi có biến cố tại Vân Môn, thân tôi ngày ngày đều thay đổi; cứ mãi nằm trên giường bịnh, bị bao khổ não bức bách. Sáng tối nghĩ suy, đường lộ hoang mang, đạo nghiệp chưa thành, sanh tử chưa đoạn; mở miệng chẳng ra lời, chắc phải bị đầu thai. "Muôn thuyền đẩy không nổi, chỉ theo nghiệp mà thọ sanh".

    Lúc còn trẻ không thì chịu tu, để hôm nay đợi đến già mới ra nông nỗi này. Hôm nay, chúng ta có dung mạo Tăng tướng đàng hoàng, đều do kiếp xưa đã trồng căn lành, nên mới được báo thân đoan trang, chớ nên làm hư hạt giống lành.

    Động Sơn hỏi Tăng:

    - Việc khổ nhất trên thế gian là gì?

    Tăng đáp:

    - Địa ngục khổ nhất.

    - Chẳng phải! Nơi y phục kim tuyến này, chưa biết được nguồn mối việc lớn, mới là khổ nhất!

    Nếu sáng việc lớn, tức không còn nhân Địa ngục. Địa ngục chưa hẳn là khổ, vì chưa hiểu rõ tự tâm mới là khổ nhất. Muốn hiểu được việc lớn, phải thường nỗ lực tinh tấn, chớ sao lãng khinh xuất, lo lắng bận bịu mãi, khiến phí mất thời giờ. Ban ngày, ứng duyên gặp cảnh, phải luôn làm chủ. Ban ngày làm chủ được thì trong mộng cũng tự chủ được. Trong mộng tự chủ được thì lúc bịnh hoạn, cho đến lúc sắp mất cũng tự làm chủ được. Làm chủ được vì bình thường tự chủ được chính mình. Tự chủ chính mình tức là dễ dàng ngộ đạo, cắt đứt sanh tử. Chưa ngộ đạo thì sanh tử khó cắt đứt. Ngộ đạo không khó, chỉ quan trọng là luôn khởi tâm thống thiết vì sanh tử, luôn hướng về đạo, và đầy đủ tâm dài lâu, cùng tâm kiên cố, cho đến chết cũng chẳng thối chuyển. Tuy chưa ngộ đạo, nhưng đời nay không thối chuyển, và đời sau sẽ lại nỗ lực tinh tấn, thì có lý do gì không ngộ đạo?

    Trong Kinh Lăng Nghiêm, hai mươi lăm vị Thánh chứng được viên thông. Mỗi vị Thánh, trải qua bao kiếp dài lâu trường kỳ tu tập, nên mới thành tựu. Chúng ta vì không có tâm thống thiết về sự sanh tử, nên không phát tâm dài lâu. Lúc bịnh thì mới nghĩ đến sự sanh tử. Lúc lành bịnh thì đạo tâm lui sụt. Thế nên, Kinh Lăng Nghiêm nói: "Phàm phu tu hành như bị bịnh sốt rét cách ngày".


    Xác thân nát _ Thế giới mất _ Nguyện vẫn còn.

  4. #154
    NỤ Avatar của nguoi ao lam
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    885
    Thanks
    487
    Thanked 474 Times in 127 Posts
    PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂN
    Phần 8
    __________________________________________________ ______________________________________


    Khi bịnh thì nhớ đến đạo. Lành bịnh thì quên mất đạo. Khởi vô minh như bị bịnh sốt rét. Vì vậy, phải nên nỗ lực tinh tấn, sanh tâm sám hối, khởi tâm kiên cố, chớ nên chỉ tu hành trong vài ngày rồi nghỉ ngơi. Tu hành phải thâm nhập vào một pháp môn, tức dùng pháp môn đó làm chính, còn các pháp môn khác làm phụ. Mỗi người tu mỗi pháp môn. Chớ cùng nhau phỉ báng khinh chê, xem thường Phật pháp. Muốn hưng thịnh Phật pháp, phải thường khuyên nhủ tán thán giúp đỡ lẫn nhau. Hỗ tương phỉ báng tức là điềm Phật pháp sắp bị hoại diệt.

    Phật tử nếu chuyên tâm hướng về đạo, nhớ nỗi thống khổ của sanh tử, thì ăn không cần no, mặc không cần ấm, ngủ không cần đủ.

    Xưa kia Thừa tướng Bùi Hưu cho con đi xuất gia. Người con vốn là Hàn lâm học sĩ. Ông ta lạy tổ Quy Sơn làm thầy, và được pháp danh là Pháp Hải. Lời giáo huấn của ngài Quy Sơn trong quyển Cảnh Sách Châm, viết: "Y phục và thức ăn không dễ dàng mà có. Sao lại cầu y phục nhu nhuyến và đồ ăn béo bổ? Chỉ ăn rau xanh cơm trắng bình thường. Tùy thời khắc, mặc vải bố thô tầm thường. Người khác ngủ rồi mình mới đi ngủ. Tối canh ba đến đầu canh năm, luôn hướng tâm đến điện Phật Thích Ca".

    Ngài Quy Sơn bảo Pháp Hải mỗi ngày phải gánh nước phục vụ đại chúng. Ngày nọ, vì gánh nước quá mệt, Pháp Hải tự nhủ thầm:

    - Các ông hòa thượng xin nước của Hàn lâm học sĩ gánh. Những giọt nước này, uống khó mà tiêu.

    Pháp Hải trở về chùa. Ngài Quy Sơn biết tâm niệm của đệ tử mình, nên hỏi:

    - Hôm nay con nói những lời gì?

    Pháp Hải thưa:

    - Con đâu có nói gì!

    Lần khác, Ngài bảo Pháp Hải:

    - Lão Tăng ngồi một lần, có thể tiêu muôn ngàn ký gạo.

    Vì vậy, đối với hàng xuất gia, không màng quý vị sanh nhà phú quý giàu sang, một khi đã bước vào cửa nhà Phật thì phải xả bỏ tất cả; luôn chuyên tâm hướng đạo, thì mới thật là con cháu có bổn sắc Thiền tông.


    Xác thân nát _ Thế giới mất _ Nguyện vẫn còn.

  5. #155
    NỤ Avatar của nguoi ao lam
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    885
    Thanks
    487
    Thanked 474 Times in 127 Posts
    PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂN
    Phần 8
    __________________________________________________ ______________________________________


    35/ Ngày mười sáu tháng sáu

    Phật thuyết Đại tạng Kinh, không ngoài giảng giải hai chữ nhân quả. Phân tích kỹ càng, lời lẽ nhiều vô cùng tận. Các Tỳ kheo thà tự ăn thịt mình, chẳng nên lấy vật dụng của Tam Bảo làm vật y bát ẩm thực của mình. Lúc xưa, tôi đi hóa duyên, tùy theo sự hoan hỷ bố thí của người khác; tôi thường trừ nhiều bổ thiếu, không dùng của thường trụ điên đảo. Ngày nay, vọng làm vọng tạo, kiến lập pháp đường, dựng am tranh, sửa nhà cầu, lợp chuồng trâu v.v... Tiền chi phí từ đâu có? Tôi không dám phan duyên, viết thơ ra ngoài hóa duyên cầu cạnh. Vừa rồi, có vài người đại diện chùa, ra ngoài hóa duyên, thiếc đồng ngói gạch, nhưng vẫn chưa đủ. Do đó, ông giám công lấy những vật liệu từ những điện đường kế bên để dùng, nhưng tôi không cho, vì sợ phải chịu quả báo ứng. Ngói gạch đang nung trong lò, dùng để sửa chữa chánh điện. Nếu dùng vào việc khác, thì e rằng sai lầm nhân quả.

    Kinh nói: "Vật ở trên mà dùng cho phía dưới thì báo ứng nặng. Vật ở dưới mà dùng cho ở trên thì báo ứng nhẹ".

    Ví như đồ tô đắp tượng Phật mà dùng làm mái chùa, hoặc đồ dùng làm mái chùa mà đem làm phòng Tăng, đó là lấy vật ở trên mà dùng phía dưới. Ngược lại, lấy vật ở dưới mà dùng cho việc phía trên. Phải nên nhận chân phân rõ trên dưới.

    Người trẻ tu hành chớ chỉ tu về trí huệ thôi, mà phải nhận biết tầm quan trọng của nhân quả.

    Trong quyển Vân Cư Sơn Chí viết: "Trên núi, vốn có am của thiền sư Từ Giác, người nước Thục. Thuở xưa, Thầy từ Tứ Xuyên hành cước, muốn đến tu hành tại núi Vân Cư. Lúc đến chân núi Vân Cư, Thầy ngủ qua đêm tại Diêu điền trang, rồi tối mộng thấy thần hộ pháp Già Lam mách bảo:

    - Xưa kia, Thầy vốn là trụ trì của núi này, nhưng nay chỉ còn chút ít duyên.

    Giữa trưa hôm sau, Thầy leo lên núi. Đến chiều tối thì dừng chân nghỉ ngơi, và xin nghỉ qua đêm. Song, Tăng chúng mới đến đều bị đuổi vì thường bị nghi là kẻ trộm. Vì vậy, Tăng chúng trên núi không cho phép Thầy ngủ qua đêm. Mười năm sau, Thầy đắc pháp nơi thiền sư Ngọa Long. Thái thú vùng Nam Khang là Trương Công, và vốn là người xứ Thục. Ông rất thích cảnh vắng vẻ thâm u tịch tĩnh của núi Vân Cư. Lại nữa, vì là bạn cũ, nên ông thỉnh Thầy lên núi Vân Cư, khai đạo giảng pháp. Thầy rất hoan hỷ, nghĩ rằng mộng năm xưa, chắc không còn linh nghiệm. Hôm sau, Thầy lên núi, ngủ qua đêm tại Mạch Châu Trang, rồi bất chợt nhập tịch. Tháp thờ Thầy đến nay vẫn còn, nhưng gần đây bị nước ngập xói mòn, chỉ còn lại một tảng đá".

    Người sau xem sự tích của thiền sư Từ Giác, thấy rõ nhân quả không sai chạy chút nào.


    Xác thân nát _ Thế giới mất _ Nguyện vẫn còn.

  6. #156
    NỤ Avatar của nguoi ao lam
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    885
    Thanks
    487
    Thanked 474 Times in 127 Posts
    PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂN
    Phần 8
    __________________________________________________ ______________________________________


    36/ Ngày hai mươi ba tháng sáu

    Pháp tu đạo, nói khó thì rất khó, bảo dễ thì cũng rất dễ. Khó cùng dễ là hai pháp đối đãi. Người xưa chân thật dụng tâm, nên không cảm thấy khó chút nào, vì việc này vốn đã hiện thành. Tại sao khó? Lòng tin không đủ nên khó. Nếu chân chánh vì cầu thoát khỏi sanh tử, xem thường thân mạng, biết nó là huyễn hóa, cùng thấu suốt tất cả sự tình, không bị cảnh chuyển, thì tu đạo rất dễ. Không thích tu học siêng năng, lại muốn làm thánh hiền, cùng sợ cảnh Địa ngục. Song, muốn là một chuyện, còn làm là một chuyện. Có nhiều người khi tu hành thì cảm thấy rất khó khăn. Vì sao? Do không xả chấp nổi. Ví như người thế tục, đối với những lời hay ho tốt đẹp, như chúc tụng phát tài, được vinh hoa phú quý, thì ai ai cũng đều thích nghe. Đối với những lời không tốt như nhà tan người chết, thì mọi người đều không muốn nghe. Chứng minh rằng mọi người đều thích những việc tốt lành, nhưng còn những việc không may, xấu xa, hư hoại thì bỏ chạy hết sao! Tất cả đều do không thể phóng xả được.

    Xưa nay, trong các thành phố thường có các thành hoàng thổ địa. Bên dưới mái hiên của những thành hoàng thổ địa, thường treo những tấm bảng viết về thiện ác của người đời. Có một tấm bảng viết: "Quý vị lại đến".

    Trên hai cây cột trụ có hai câu đối:

    "Người ác, người sợ, trời không sợ

    Người hiền, người dối, trời không dối".


    Lại có câu:

    "Thiên đường có lối, người không đi

    Địa ngục không cửa, người cứ đến".

    Phàm phu thường mưu mô xảo quyệt. Làm việc gì đều tính toán xem coi có lợi hay không. Đối với kẻ ác, mọi người đều không dám gần gũi vì sợ bị thọ tai họa. Nếu nhường nhịn họ, thì vẫn bị tổn hại. Song, đối với nhân quả báo ứng, trời không sợ kẻ ác.

    Chúng ta ngồi thiền niệm Phật, vì muốn giải thoát sanh tử. Do vô minh, cống cao ngã mạn, nên không thể nhẫn nhục, đoạn trừ tập khí. Tuy có tu nhân lành, nhưng chẳng tránh được quả khổ. Sanh tử chưa cắt, thì theo nghiệp mà thọ quả báo, nên bảo:

    - Quý vị lại đến.

    Thọ khổ dưới địa ngục xong, Diêm Vương răn nhắc rằng chớ trở lại. Nếu trở lại tức sẽ không gặp điều lành. Vì xả chấp không nổi, nên cứ y theo thói quen tật xấu, gây phạm tội lỗi, rồi phải đọa vào Địa ngục lần nữa.


    Xác thân nát _ Thế giới mất _ Nguyện vẫn còn.

  7. #157
    NỤ Avatar của nguoi ao lam
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    885
    Thanks
    487
    Thanked 474 Times in 127 Posts
    PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂN
    Phần 8
    __________________________________________________ ______________________________________


    Người thế tục si mê, tạo bao nghiệp ác mà không thường hành việc lành, nên phải chiêu vời quả khổ. Người xuất gia có muốn thoát khỏi vòng khổ lụy không? Nếu không muốn, thì cần gì nhập vào cửa Không? Nhập vào cửa Không tức là chẳng có một vật gì để chứng đắc, đều ngưng, sao còn có thiên đường địa ngục? Song, nếu chưa nhận rõ bốn đại là không, năm ấm chẳng có, thì vẫn chưa tính là nhập vào cửa Không. Muốn nhập vào cửa Không, phải nghiên cứu đọc tụng tường tận về kinh Lăng Nghiêm. Lời lẽ trước sau trong toàn bộ kinh, không bàn ngoài năm ấm. Trong đó, từ năm ấm lại thuyết đến sáu nhập, mười hai xứ, mười tám giới.

    Bên trong thì là thân tâm, còn bên ngoài thì thuộc về khí chất của thế giới; chúng không ngoài năm ấm, tức là sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Kinh thuyết phàm thuyết thánh, thuyết ngộ đạo, thuyết nhập đường ma, đều muốn xiển minh năm ấm không thật có. Kinh dạy chúng ta hãy xem thấu rõ năm ấm đều là không. Cuối cùng, Kinh nói đến Niết Bàn, cùng ba cõi bất biến. Kinh cũng nói rõ tường tận về tà ma năm ấm. Sắc dâm trong sắc ấm là căn bản sanh tử. Giết hại, tà dâm, nói láo vốn là cội gốc của địa ngục. Nhìn thấu năm ấm vốn không, thì thoát ly sanh tử, không còn bị luân hồi. Phải chiếu soi như thế nào? Chiếu soi tức giác chiếu. Thời thời khắc khắc, y theo lời Kinh, dùng trí huệ quán chiếu năm ấm. Chiếu soi rõ ràng thì thấy năm ấm đều không. Lúc đầu quán chiếu, đều là vọng tưởng, nhưng không quan hệ chi. Người xưa bảo:

    - Không sợ niệm khởi, chỉ sợ giác chậm.

    Nếu vọng niệm khởi, phải nên giác chiếu, chớ để vọng niệm chuyển. Nếu không thể giác chiếu, thì lúc ngồi thiền lại sợ đau chân; lúc lễ Phật, sợ nhức lưng. Lười biếng nhút nhát, không thông lộ trình lên thiên đàng, nên tự nhiên chạy xuống Địa ngục.

    Đại sĩ Hàn Sơn viết kệ:

    "Nhân gian hỏi đạo Hàn Sơn

    Đường Hàn Sơn lộ không thông

    Ngày hè băng tuyết chưa tan

    Mặt trời hiện, sương lóng lánh

    Tựa như tôi, sao chờ thời

    So cùng bạn, tâm chẳng đồng

    Tâm bạn nếu tựa như tôi

    Lại được vào nơi đó".



    Xác thân nát _ Thế giới mất _ Nguyện vẫn còn.

  8. #158
    NỤ Avatar của nguoi ao lam
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    885
    Thanks
    487
    Thanked 474 Times in 127 Posts
    PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂN
    Phần 8
    __________________________________________________ ______________________________________


    Hàn tức là hàn băng giá lạnh. Trong mùa hè, băng tuyết vẫn chưa tan. Mặt trời hiện, sương lóng lánh; một phiến băng trong tâm của tôi không đồng với bạn. Nếu bạn muốn làm tựa giống như tôi, thì có thể vào tận núi Hàn Sơn, chứ chẳng phải đường Hàn Sơn chưa thông.

    Người tu đạo phải thấy năm uẩn đều không. Trước hết, phải khô tâm lạnh ý. Nếu lửa cháy rực trời mà chưa tan băng tuyết giá lạnh tâm tràng, thì mới cùng đạo tương ưng.

    Xưa kia, Lư Khâu Dận xuất quân tại Mục Đan Khâu. Ngày lâm trận, chợt bị nhức đầu dữ dội, mà các thầy thuốc không có cách nào chữa trị. May mắn thay, ông gặp một Thiền sư, hiệu là Phong Can, tự bảo rằng từ chùa Quốc Thanh ở núi Thiên Thai, đặc biệt tìm đến đó. Lư Khâu Dận bèn nhờ Thiền Sư chữa bịnh. Thiền Sư thong thả bảo:

    - Thân trú nơi bốn đại. Bịnh từ huyễn sanh. Nếu muốn trừ khử, hãy uống nước tịnh.

    Khi đem nước tịnh lên, Thiền sư ngậm rồi phun nước, sắn tay áo lên, bảo:

    - Chim biển Thai Châu rất độc. Từ nay, phải nên bảo trọng.

    Sau đó, Lư Khâu Dận hỏi:

    - Nơi đây có bậc thánh hiền nào đáng để cung kính thờ làm thầy chăng?

    Thiền Sư đáp:

    - Thấy mà không nhận ra. Nhận ra mà không thấy. Nếu muốn thấy, chớ nên chấp tướng. Hàn Sơn vốn là ngài Văn Thù, ẩn tích nơi chùa Quốc Thanh. Thập Đắc tức là ngài Phổ Hiền, dạng trạng như kẻ bần cùng điên cuồng, hoặc đến hoặc đi, đang làm lụng trong bếp tại chùa Quốc Thanh.

    Nói xong, Thiền Sư liền cáo từ. Sau này Lư Khâu Dận làm quan, đến nhậm chức tại Thai Châu. Vì nhớ đến lời của thiền sư Phong Can năm xưa, nên vừa nhậm chức ba ngày, ông tìm đến các tự viện, cung kính vấn hỏi chư Thiền đức. Quả nhiên hợp với những lời nói xưa kia của Thiền sư Phong Can. Ông đến chùa Quốc Thanh, hỏi tăng chúng rằng Thiền sư Phong Can cùng Hàn Sơn Thập Đắc, hiện đang trú nơi đâu. Khi ấy, có vài vị Tăng cười ngất, bảo:

    - Thiền sư Phong Can đang trú đằng sau tàng Kinh tạng. Nơi đó, không ai đến được vì có hổ dữ thường quanh quẩn. Hai ông Hàn Sơn và Thập Đắc, hiện đang nấu nướng trong bếp.

    Nói xong, Tăng chúng dẫn Lư Khâu Dận đến viện của thiền sư Phong Can. Mở cửa phòng ra, chỉ thấy dấu chân hổ. Khi họ vào nhà bếp, thấy hai vị Hàn Sơn và Thập Đắc, chỉ tay về hướng họ mà cười to. Lư Khâu Dận liền lễ bái. Hàn Sơn và Thập Đắc cầm tay nhau, cười ha hả, và la to:

    - Phong Can lắm lời. Di Đà không nhận ra, sao lễ lạy chúng tôi?

    Tăng chúng tụ hợp, kinh ngạc vì thấy một vị thượng quan lại đi lễ lạy hai ông tăng điên khùng. Lúc đó, Hàn Sơn và Thập Đắc nắm tay nhau, bước ra khỏi chùa, rồi chạy vào núi tuyết. Lư Khâu Dận lại hỏi tăng chúng:

    - Hai vị này thường trú ở chùa này phải không?

    Hỏi xong, ông cho người đi tìm, thỉnh hai Ngài trở về chùa. Trở về dinh, ông mang hai bộ tịnh y ca sa, bày biện hương dược đặc biệt, cùng bao loại thức ăn, rồi mang vào núi cúng dường. Lúc đó, hai vị đại sĩ vẫn không chịu trở về chùa. Vừa thấy ông quan đến, hai ngài bèn hô to:

    - Giặc! Giặc!

    Hô xong, hai ngài lại nắm tay nhau, vừa chạy vào núi sâu, vừa bảo:

    - Này quý vị! Mỗi người phải tự nỗ lực tu hành.

    Nói xong, hai ngài chạy mất vào núi, không để dấu vết, khiến chẳng ai tìm được. Tăng chúng trong chùa, khi xem xét lại hành trạng hằng ngày của hai vị thì thấy thơ kệ, được viết đầy dẫy trên những vách đá nơi vườn trúc sau chùa, và trên các tường vách tại những nơi thờ Thần hoàng Thổ địa, cùng hơn ba trăm bài kệ trên những bức tường nhà cửa dân làng. Tăng chúng góp nhặt lại những bài thi kệ đó, rồi đóng thành một quyển, để lại cho đến nay. Theo lời của ngài Hàn Sơn thì: "Năm lời năm trăm thiên; bảy chữ, bảy mươi chín; ba chữ ba mươi mốt. Tất cả cộng thành sáu trăm bài kệ. Những lời viết trên đá thạch, tự khoe chữ viết rất hay. Nếu lãnh hội thơ của Ta, chân chánh là mẹ của Như Lai... Nhà có thơ Hàn Sơn, hơn cả Kinh kệ. Thư để trên tấm bình phong, thời thời nên xem một biến".

    Ngài Thập Đắc viết:

    "Có kệ có muôn ngàn

    Gấp gáp ứng đáp khó

    Nếu muốn hiểu thấu rõ

    Nên vào núi Thiên Thai

    Trong hang sâu ngồi tọa

    Thuyết lý và đàm huyền

    Cùng Ta không thể gặp

    Tựa đối diện ngàn núi".


    Thơ kệ của hai ngài Hàn Sơn và Thập Đắc được lưu truyền cho đến ngày nay, mà người người đều tôn trọng. Nhà nho cũng có nhiều người thích đọc tụng. Hai ngài xuất khẩu thành thơ, lời lời đều đàm huyền thuyết diệu. Song, hai ngài bảo rằng không nên chuyển văn làm thơ vận để đọc tụng. Nếu làm thì tuy đối diện với hai ngài, nhưng vẫn như cách xa ngàn núi.


    Xác thân nát _ Thế giới mất _ Nguyện vẫn còn.

  9. #159
    NỤ Avatar của nguoi ao lam
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    885
    Thanks
    487
    Thanked 474 Times in 127 Posts
    PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂN
    Phần 8
    __________________________________________________ ______________________________________


    37/ Ngày hai mươi lăm tháng sáu

    Bồ Tát Địa Tạng phát đại thệ nguyện:

    "Chúng sanh độ hết tận, thì mới chứng đạo Bồ Đề.

    Địa ngục chưa trống không, thệ không thành Phật".


    Tất cả chư Bồ Tát cũng đều phát nguyện như thế. Mỗi ngày, từ sáng đến tối, chúng ta lên chánh điện, cũng phát nguyện:

    "Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ

    Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn

    Pháp môn vô lượng thệ nguyện học

    Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành".

    Là đệ tử Phật, mọi người phải nên phát nguyện. Chứng quả thâm sâu hay cạn cợt, đều do nguyện lực rộng hay hẹp. Y theo nguyện hành trì, mới định đoạt quả vị lớn nhỏ.

    Phật từ chúng sanh mà tu thành. Chúng sanh nếu y theo nguyện mà hành trì, thì đạt được quả Bồ Đề, tức có khả năng thành Phật.

    Ai ai cũng có duyên phần thành Phật. Sao chư Bồ Tát lại còn phát nguyện độ chúng sanh, độ tới độ lui, độ mãi chẳng hết? Chữ chúng sanh, do ba chữ nhân hợp thành, tức ba người trở lên thì thành chúng. Con số của chúng sanh, nhiều vô cùng vô tận. Trong mười pháp giới, trừ pháp giới chư Phật, chín pháp giới kia đều là chúng sanh. Ba pháp giới như pháp giới Bích Chi Phật, pháp giới Bồ Tát, pháp giới A La Hán, vốn là Thánh hiền, vì đã xuất ra khỏi biển khổ sanh tử, không còn luân hồi. Sáu pháp giới còn lại như Trời, Người, A Tu La, Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh, chưa thoát ra khỏi sanh tử. Trong chín pháp giới, ba pháp giới thánh hiền vẫn còn tập khí vi tế cạn cợt, chưa dứt trừ tận, nên vẫn còn thuộc về hàng chúng sanh. Sáu pháp giới bên dưới thì tập khí thâm sâu nặng nề, nghiệp chướng đầy dẫy, nên gọi là chúng sanh khổ não. Những chúng sanh này, chết rồi lại sanh, không khi nào ngừng. Số luợng chúng sanh này, nhiều không thể tính hết.

    Thiền sư Nguyên Khuê ở núi Sùng Nhạc, bảo Thần núi:

    - Phật làm được bảy việc, nhưng không thể làm được ba việc. Tại mọi tướng không, Phật chuyển được thành muôn pháp trí, mà không thể diệt định nghiệp. Phật biết được tánh của quần sanh, cùng các sự việc trong muôn ức kiếp, mà không thể hóa độ kẻ vô duyên. Phật độ được hết vô lượng chúng hữu tình, mà không thể độ tận pháp giới chúng sanh. Đó là ba điều mà Phật không thể làm được. Song, định nghiệp thật cũng không lâu. Kẻ vô duyên cũng có kỳ được độ. Pháp giới chúng sanh vốn không tăng không giảm, lại không có ai làm chủ tể. Có pháp mà vô chủ, tức gọi là vô pháp. Vô pháp vô chủ, tức gọi là vô tâm. Hôm nay, Ta không dùng thần thông để hiểu Phật, nhưng lại dùng vô tâm mà liễu đạt hết muôn pháp. Chúng sanh vốn không tăng không giảm, nên lúc cứu độ họ, không thể gọi là tận hay bất tận.

    Trong kinh Pháp Bảo Đàn, Lục Tổ giải thích bốn hoằng thệ nguyện: "Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ..." Tâm tà, cuồn loạn, bất thiện, ganh ghét, ác độc, v.v... là tâm chúng sanh. Tự tánh các ông tự độ, đó gọi là độ chân thật.

    "Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn", tức dùng trí huệ của tự tánh bát nhã, để trừ khử tư tưởng hư vọng.

    "Pháp môn vô lượng thệ nguyện học", tức thấy tự tánh, thường hành chánh pháp, đó gọi là học Phật chân chánh.

    "Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành", tức thường luôn hạ tâm, hành nơi chân chánh; rời mê rời giác, thường sanh Bát Nhã, trừ chân trừ vọng, tức thấy Phật tánh, tức gọi là thành Phật đạo.


    Xác thân nát _ Thế giới mất _ Nguyện vẫn còn.

  10. #160
    NỤ Avatar của nguoi ao lam
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    885
    Thanks
    487
    Thanked 474 Times in 127 Posts
    PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂN
    Phần 8
    __________________________________________________ ______________________________________


    Thiền sư Phật Quả nói:

    - Bàn về cứu cánh, Phật cũng không lập, sao còn có chúng sanh? Bồ Đề cũng không lập, sao gọi tạo phiền não?

    Người xưa thuyết những lời như thế, sao chúng ta không thể làm được? Chỉ vì không dám trừ phiền não, xả bỏ chấp trước không nổi, làm chủ không được, chẳng có giác chiếu, nên nơi tự tánh chợt khởi vọng niệm. Nếu quên mất động tĩnh, thì trong nước xanh, trăng sáng được hiện tiền.

    Tại Gia Châu, vào niên hiệu Chánh Hòa thứ hai, một hôm sấm sét đánh, chặt đôi tàng cây cổ thụ. Trong đó, có một vị Tăng đang nhập định, râu tóc bao quấn chung quanh thân. Vị tăng này được triệu về hoàng cung, để phiên dịch Kinh điển. Quan Kim Tổng Trì phải dùng cây khánh bằng vàng để đánh thức Ngài. Được hỏi tên tuổi, Ngài bảo:

    - Tên tôi là Huệ Trì, vốn là sư đệ của pháp sư Huệ Viễn tại núi Lô Sơn. Trên đường tới núi Nga Mi, ngừng nhập định tại đây.

    Được hỏi "muốn trở lại nơi nào ?", Ngài đáp:

    - Tôi muốn trở lại nhập định trong tàng cây xưa.

    Vua ban chiếu, đem lễ vật biếu tặng. Nhân đó, Ngài làm kệ:

    "Bảy trăm năm đến cổ thụ già

    Trong định ngưng thở ai biết được

    Tranh như mang dép trở về Tây

    Sanh tử sao nhọc, cây làm da".


    Triều Lương Võ Đế, niên hiệu Phổ Thông thứ bảy (526), Đạt Ma Tổ Sư đi thuyền từ Tây Thiên đến nước Tàu. Vì cơ duyên vấn đáp của vua Lương Võ Đế không khế hợp, Tổ bèn vượt sông đến Lạc Dương, cư trú tại chùa Thiếu Lâm. Sau chín năm ngồi thiền đối diện vách đá, Tổ đem Chánh pháp nhãn tạng truyền lại cho ngài Huệ Khả. Lúc hóa duyên xong, Tổ an nhiên thị tịch. Đại chúng xây mộ phần của Tổ tại núi Nhĩ Sơn, và lập tháp thờ nơi chùa Thiếu Lâm. Trong năm đó, quan ngự sử Tống Vân của nhà Ngụy trên đường đi sứ từ Thiên Trúc trở về, ngang qua một sườn núi, thấy Tổ đang quảy một chiếc giày trên vai, bước đi lẹ làng. Tống Vân hỏi Tổ đi đâu? Tổ đáp:

    - Ta trở về Thiên Trúc.

    Tống Vân trở về, thuật lại việc này, rồi cùng môn nhân đào huyệt, nhưng thấy quan tài trống không, chỉ còn một chiếc dép. Vua ban chiếu chỉ, đem chiếc dép đó về chùa Thiếu Lâm thờ phụng cúng dường. Người sau vẽ tượng thờ Tổ, vai quảy một chiếc dép. Tổ Đạt Ma ngồi thiền đối mặt vách tường. Huệ Trì nhập định. Công phu thâm sâu cạn cợt không đồng. Công phu thiền định bảy trăm năm, không thể bảo là chẳng thâm sâu, nhưng sao sánh bằng một chiếc dép trở về Tây Thiên của Tổ Đạt Ma! So với thiền định của thiền sư Huệ Trì, chúng ta còn thua xa diệu vợi. Chẳng có chút công phu thiền định, làm sao độ được chúng sanh? Hãy nỗ lực xả chấp trước, cố gắng dụng công tu đạo.


    Xác thân nát _ Thế giới mất _ Nguyện vẫn còn.

Thông tin chủ đề

Users Browsing this Thread

Hiện có 1 người đọc bài này. (0 thành viên và 1 khách)

Quyền viết bài

  • Bạn không thể gửi chủ đề mới
  • Bạn không thể gửi trả lời
  • Bạn không thể gửi file đính kèm
  • Bạn không thể sửa bài viết của mình
  •