DIỄN ĐÀN PHẬT PHÁP THỰC HÀNH - Powered by vBulletin




Cùng nhau tu học Phật pháp - Hành trình Chân lý !            Hướng chúng sinh đi, hướng chúng sinh đi, để làm Phật sự không đối đãi.


Tánh Chúng sinh cùng Phật Quốc chỉ một,
Tướng Bồ Đề hóa Liên hoa muôn vạn.

Trang 15/20 ĐầuĐầu ... 51314151617 ... CuốiCuối
Hiện kết quả từ 141 tới 150 của 196
  1. #141
    NỤ Avatar của nguoi ao lam
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    885
    Thanks
    487
    Thanked 474 Times in 127 Posts
    PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂN
    Phần 7
    __________________________________________________ ______________________________________


    29/ Ngày hai mươi tháng năm

    Pháp của Phật thuyết ra, có thiên kinh vạn luận. Tựu chung, thiết yếu chỉ dạy chúng sanh tự hiểu rõ tâm tánh. Nếu ai nhận ra được tâm, thì đại địa chẳng có một tấc đất. Chúng sanh từ vô lượng kiếp đến nay bị vật xoay chuyển, do vì cầu pháp ngoài tâm mà không nhận ra tự tánh. Bổn gốc vốn không một vật, thì làm sao nắm bắt được muôn pháp. Vừa vọng chấp ngoài tâm có pháp, thì trở thành tà tri tà kiến. Song, bảo rằng nhận ra được tâm thì đại địa chẳng có một tấc đất, đó cũng còn tính toán. Thật ra, Phật thuyết tam Quy Y, năm giới cấm, ba ngàn oai nghi, tám muôn tế hạnh, cùng muôn ngàn pháp môn, đều vì để đối trị tâm chúng sanh.

    Tập khí xấu xa của chúng sanh có tám mươi bốn ngàn loại phiền não. Vì thế, Phật thuyết ra tám mươi bốn ngàn pháp môn để đối trị. Đó là phương tiện thiện xảo của Phật. Quý vị có bịnh gì thì Phật cho thuốc đó. Phật thuyết ra tất cả pháp, vì để độ tất cả tâm. Nếu không có tất cả tâm, cần dùng chi tất cả pháp? Chúng sanh từ vô lượng kiếp đến nay, bị vô minh phiền não làm ô nhiễm chân tâm, nên nhận lầm bốn đại làm thân tướng của mình, mà không biết nó vốn không có thật thể, chỉ do đất nước gió lửa hợp thành, đồng như huyễn hóa. Nay muốn xoay về cội nguồn, đầu tiên phải điều phục thân tâm, đoạn trừ tập khí, chuyển tâm thô thành tâm vi tế. Từ hữu vi tiến đến vô vi, khởi dụng công từ tự tánh thanh tịnh của pháp thân. Từ sáng đến tối, đi đứng nằm ngồi, như mài như giũa, cẩn thận chú ý, đoạn trừ tập khí.

    Mật phải lớn, và tâm phải vi tế. Mật lớn bao trùm thân tâm, không để cảnh chuyển. Tâm vi tế, tức khí lực phải vi tế, chớ khởi tâm thô khí phù. Những việc này, tự mình có thể kiểm nghiệm. Người nguời đều sống vội vàng hấp tấp, nên khí suyễn hơi thô. Người có công phu định lực, tuy bận rộn nhưng không có khí suyễn. Từ sáng đến tối, tâm bình khí hòa. Chú tâm mà chẳng loạn, tức là định. Vọng tưởng vốn không có thật thể. Có định tức không vọng tưởng, nên tự tìm lại được nguồn tâm. Vừa khởi công phu, phải bàn về oai nghi giáo tướng. Đi đứng nằm ngồi đều có oai nghi. Chớ bảo rằng vì bận rộn mà quên đi oai nghi giới hạnh cùng việc sanh tử. Làm đệ tử Như Lai, tức là thân quyến của Tiên Thánh, ra vào nơi cửa vàng, hành tạng nơi bảo điện. Phải ung dung tự tại đến những nơi sóng khởi ba đào, để truyển chuyển tích trượng, thăng lên hư không. Giả sử mười đại ma quân, nghe danh mà đến quy y chánh đạo, có nên vì đó mà quên giảng oai nghi không?


    Xác thân nát _ Thế giới mất _ Nguyện vẫn còn.

  2. #142
    NỤ Avatar của nguoi ao lam
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    885
    Thanks
    487
    Thanked 474 Times in 127 Posts
    PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂN
    Phần 7
    __________________________________________________ ______________________________________


    Xưa kia, ngài Viễn Lục tại núi Phù Sơn, bảo một vị tọa chủ:

    - Nhờ trị tâm, nên mới cầu diệu ngộ. Ngộ đạo được thì thần hòa khí tĩnh, vọng tưởng tình ngưng, dung mạo trang nghiêm khả kính, phù hợp nơi chân tâm. Nhờ điều phục nên tâm tự linh diệu, rồi sau này mới chỉ dạy muôn loài.

    Thế nên, người có mắt sáng, thấy mọi hành động cử chỉ oai nghi ra sao, thì biết quý vị tu hành như thế nào. Thuở xưa, khi còn làm Bà La Môn, ngài Xá Lợi Phất gặp tôn giả Mã Thắng. Do thấy oai nghi uy nghiêm của tôn giả Mã Thắng, ngài Xá Lợi Phất bèn khởi tâm cung kính, và đi theo hỏi pháp. Tôn giả Mã Thắng bảo:

    "Các pháp từ duyên sanh

    Các pháp từ duyên diệt

    Thầy tôi đại sa môn

    Thường thuyết lời như thế".


    Nghe bài kệ này, ngài Xá Lợi Phất liền đắc pháp nhãn thanh tịnh. Trở về, Ngài đọc lại bài kệ này cho Mục Kiền Liên nghe. Nghe xong, ngài Mục Kiền Liên cũng đắc được pháp nhãn thanh tịnh. Tức thời, cả hai ngài liền dẫn một trăm đệ tử, đến vườn Trúc Lâm, cầu xin xuất gia. Khi đó, Phật bảo:

    - Lành thay ! Này Tỳ kheo!

    Phật vừa nói xong, bất chợt râu tóc của hai ngài đều tự rụng xuống, y ca sa tự quấn thân, tức thành sa môn.

    Quý vị thấy đó, tôn giả Mã Thắng đi trên đường lộ, oai nghi nghiêm túc, khiến thành tựu được công đức như thế. Đấy là dùng oai nghi mà dạy người.

    Quý vị sơ phát tâm, đồng tham học! Phải nên hướng theo người xưa mà học tập, cùng nhất tâm quán chiếu chính mình; đi đứng nằm ngồi, trong mười hai thời, đều để vô tâm không bị cảnh chuyển. Nếu không giữ bổn phận như thế, bị lưu chuyển mãi theo vọng tình, thì có khác gì người thế tục? Tuy nói xuất gia tu đạo, nhưng đều là lời trống không vô ích. Quý vị hãy lưu tâm.


    Xác thân nát _ Thế giới mất _ Nguyện vẫn còn.

  3. The Following User Says Thank You to nguoi ao lam For This Useful Post:

    Phúc Hạnh (01-21-2019)

  4. #143
    NỤ Avatar của nguoi ao lam
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    885
    Thanks
    487
    Thanked 474 Times in 127 Posts
    PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂN
    Phần 7
    __________________________________________________ ______________________________________


    30/ Ngày hai mươi mốt tháng năm

    Trong kinh Lăng Nghiêm, Phật bảo:

    - Như khi Ta chỉ ngón tay, hải ấn phát quang. Ngược lại, ông vừa khởi tâm, thì trần lao liền nổi lên.

    Kinh Lăng Nghiêm, do ngài A Nan phát khởi, thị hiện làm mô phạm cho chúng ta. Toàn bộ Kinh, chú trọng chữ dâm dục. Do từ chữ dâm dục mà Phật thuyết ra rất nhiều ngôn từ. Đầu tiên, ngài A Nan thị hiện, đi khất thực, qua nhà dâm nữ, bị Ma Đăng Già nữ dùng thần chú Tiên Phạm Thiên Bà Tỳ Ca La, nhiếp dẫn vào phòng dâm. Nơi dâm cung phủ ma, sắp đoạn giới thể. Như Lai biết ngài A Nan bị ma thuật mê hoặc, nên thọ trai xong, liền trở về tịnh xá. Vua quan đại thần trưởng giả cư sĩ, đồng đi theo Phật, vì nguyện muốn nghe pháp yếu. Bấy giờ Thế Tôn, đảnh phóng trăm luồng ánh sáng bảo quý vô úy. Trong các luồng ánh sáng, xuất hiện các hoa sen báu ngàn cánh; trong đó có hóa thân Phật, ngồi xếp bằng đoan tọa, tuyên thuyết thần chú, rồi sai ngài Văn Thù, đem thần chú đến, cứu hộ ngài A Nan.

    Khi ấy, ác chú liền tiêu mất. Bồ Tát Văn Thù dẫn ngài A Nan cùng dâm nữ Ma Đăng Già, trở về nơi Phật trú. A Nan vừa thấy Phật, đảnh lễ rơi lệ, hối hận từ vô thủy đến nay, chỉ hướng đa văn, chưa hoàn toàn đủ đạo lực, nên ân cần khải thỉnh mười phương Như Lai mở phương tiện đầu tiên, để tu hành chứng đắc đạo Bồ Đề, diệu Xa Ma Tha, Tam Ma Thiền Na. Phật ứng theo lời thỉnh cầu, nên thuyết ra bộ Kinh Lăng Nghiêm. Ngài A Nan gặp dâm nữ Ma Đăng Già, không thể làm chủ được. Đấy là Bồ Tát thị hiện vào thế gian, chẳng do ái dục, mà chỉ vì tâm từ bi, muốn chúng ta xả ái, cùng các tham dục, nên nhập vào sanh tử, giả việc tham ái. Kinh Viên Giác nói: "Tất cả chúng sanh, từ đời vô thủy đến nay, do vì bao loại ân ái tham dục, nên bị luân hồi. Tất cả chủng tánh, noãn sanh, thai sanh, thấp sanh, hóa sanh, đều nhân dâm dục mà sanh ra tánh mạng. Phải biết luân hồi, ái dục là cội gốc".

    Thế nên bảo:

    - Luân hồi trong ba cõi, dâm dục làm gốc. Qua lại sáu đường, ái dục làm nền tảng.

    Trên thế gian, có người xuất gia kẻ tại gia, lại có người vì đạo và không vì đạo. Do không rõ tự tánh, nên đều bị năm món dục lạc xoay cuốn tới lui. Năm dục là tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, thức ăn, ngủ nghỉ. Do năm món dục lạc này, mà khởi ra thất tình: Vui vẻ, bực tức, buồn bả, sung sướng, thương mến, oán ghét, mong muốn. Thất tình lại trói chặt năm món dục lạc. Vì vậy, không thể cắt đứt sanh tử.

    Kinh nói: "Chúng sanh trong cõi Nam Diêm Phù Đề, dùng tiền tài làm mạng sống".

    Lúc nhập thai, khởi đầu do dâm dục. Đến khi sanh ra, lại dùng tiền tài làm chủ yếu. Hòa thượng Quảng Huệ khuyên người chớ tham tài lợi:

    - Tất cả nghiệp tội, đều nhân vì đắm chấp vào tiền tài vật chất mà sanh ra.

    Thế nên, trong năm món dục, đầu tiên là tiền tài. Người có tiền tài, mới có y phục, thức ăn chỗ ở, rồi mong muốn nữ sắc, phụ nữ thê thiếp. Người nghèo cùng, thì làm việc gì cũng khó thành, chứng minh tiền tài rất lợi hại. Người thế gian dùng tiền tài làm nguồn vui. Không tiền thì khổ đau, nên mong muốn có tiền. Có được chút đỉnh thì lại muốn nhiều thêm. Có được bạch ngân, lại thích vàng ròng, chẳng hề biết đủ. Họ chỉ lo thân mình, và tính toán cho con cháu. Cả đời khổ nhọc, bận bịu vì tiền tài, mà không biết rằng có tiền nhưng khó mua được con cháu hiền lành. Khi vô thường đến, một mảnh giấy cũng không mang theo được. Phải nên nhìn thấu suốt tiền tài.


    Xác thân nát _ Thế giới mất _ Nguyện vẫn còn.

  5. #144
    NỤ Avatar của nguoi ao lam
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    885
    Thanks
    487
    Thanked 474 Times in 127 Posts
    PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂN
    Phần 7
    __________________________________________________ ______________________________________


    Xưa kia, có ba gã ăn xin, cùng đi trên đường. Cả ba đồng chợt thấy một đồng tiền trên đất. Gã thứ nhất định nhặt lấy, nhưng bị gã thứ hai ngăn lại, bảo:

    - Tôi thấy đồng tiền đó trước, nên nó phải về tay tôi.

    Gã thứ ba cũng bảo:

    - Tôi thấy trước hết, nên nó phải thuộc về tôi.

    Ba gã ăn mày chỉ vì một đồng tiền này mà tranh cãi đánh nhau trên đường phố. Quân lính tuần hành, đi ngang qua thấy họ đánh nhau rất hung hăng; vì sợ sẽ tổn thương tánh mạng, nên quân lính bắt cả ba về dinh phủ, phán xử thị phi. Quan huyện ngồi trên tòa, tra hỏi rõ nguyên do, bảo:

    - Các ông không nên tranh nhau vì đồng tiền này.

    Cả ba đồng nói:

    - Chúng tôi bần cùng đến mức này, sao lại không tranh đồng tiền đó?

    - Vậy thì mỗi người các ông hãy kể việc nghèo cùng của mình. Nếu ai là người thật rất nghèo cùng thì Ta sẽ đưa đồng tiền này cho.

    Gã thứ nhất nói:

    - Tôi thật rất nghèo cùng, vì nóc nhà lủng thấu trời xanh; y phục rách rưới không chỉ vá; thường lấy ngói gạch làm gối, và lấy cỏ xanh làm nệm.

    Gã thứ hai bảo:

    - Tôi còn nghèo cùng hơn nữa, vì trời xanh là nóc nhà, y phục chẳng che được nửa thân, gối là búi tóc, gân cốt là nệm chiếu.

    Gã thứ ba bảo:

    - Họ không nghèo cùng bằng tôi. Tôi bị đói khát cả chục ngày, ngủ mộng cả nửa năm, chết không nhắm mắt, chỉ vì đồng tiền này.

    Quan nghe thế, liền cười to. Đây là câu chuyện tham tiền hài hước.

    Đức Thế Tôn thuyết pháp, giảng giải tiền tài mê hoặc người đời, thật không gì diễn tả hết. Đa số người xuất gia cũng bị tiền tài làm mê hoặc. Xưa đồng tiền, nay là giấy bạc. Chúng trói buộc con người đến chết. Rời chúng thì chẳng sống được qua ngày. Quý vị muốn trồng trọt, làm ruộng vườn thì phải có công cụ cuốc xẻng. Không tiền thì không thể mua được dụng cụ cuốc xẻng, nên không thể trồng trọt chi hết. Chúng ta bận rộn suốt ngày, có phải chỉ vì tiền bạc thôi sao?

    Người thế tục ăn mặc nếu đầy đủ rồi, lại tham đắm sắc dục. Chữ sắc này đã hại không biết bao nhiêu người. Xưa kia, các vua chúa đế vương, chỉ vì tham sắc mà mất nước không ít. Thuở xưa, vua nhà Thương, tức Hạ Kiệt, mang quân đi chinh phạt, toàn thắng bắt được Muội Hỷ đem về làm vợ. Vì hoang dâm vô đạo, nên nhà Thương mới bị đoạn diệt. Vua Trụ nhà Thương luyến ái Đắc KỶ, đam mê tửu sắc, bạo ngược vô đạo. Khi bị Châu Võ Vương chinh phạt, khiến quân binh tán loạn, nên Trụ Vương phải tự sát. Thời xưa chưa có điện thoại điện báo, cảnh sát biên phòng, nên khi giặc đến, chỉ đốt cỏ khô làm hiệu. Phương pháp là lập một đài cao. Trên đài có một cái gác.

    Trên gác có một cái giỏ. Trong giỏ có chứa cỏ khô. Nếu có giặc đến, liền đốt lửa làm hiệu, gọi là phong toại. Khi lửa hiệu được đốt lên, thì những đài bên cạnh lập tức báo cho quân phòng thủ. Châu U Vương ân sủng chiều chuộng Bao Tự, nhưng nàng ta chẳng bao giờ cười đùa. Châu U Vương đốt lửa để hiệu triệu các nước chư hầu. Quân chư hầu đến, nhưng không thấy giặc, chỉ nghe tiếng nàng Bao Tự cười to. Sau này, Tây Di Khuyển Nhung theo giặc vây thành. Châu U Vương liền đốt lửa làm hiệu, nhưng quân chư hầu không màng đến. Khuyển Nhung xua quân chiếm thành, giết Châu U Vương dưới chân núi Li Sơn, cùng bắt đi Bao Tự. Vì vua đốt lửa hiệu, trêu ghẹo quân chư hầu, nên phải bị mất mạng. Họa tham sắc dục, vô lượng vô biên, kể không thể hết.


    Xác thân nát _ Thế giới mất _ Nguyện vẫn còn.

  6. #145
    NỤ Avatar của nguoi ao lam
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    885
    Thanks
    487
    Thanked 474 Times in 127 Posts
    PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂN
    Phần 7
    __________________________________________________ ______________________________________


    Lợi và danh đi liền với nhau. Danh có tốt có xấu, hoặc lưu tiếng thơm trăm đời, hay để vết nhơ muôn thuở. Điển hình là tam hoàng ngũ đế, thánh quân hiền vương. Vua Vũ nhà Hạ vâng lệnh lo việc dẫn thủy nhập điền; tám năm ra ngoài lao tâm cực khổ, ba lần đi ngang qua nhà mà không dám bước vào. Ông khai chín châu, thông chín đại lộ, đào chín sông, vạch chín núi. Làm xong nhiệm vụ đó, ông ta lại định lập thuế má, lệ cống, chế năm loại y phục, cùng khiến các nước lân bang thần phục.

    Đời vua Thang, có gã thợ săn sau khi đặt lưới bẫy chim, liền cầu nguyện: "Từ trên trời xuống, từ dưới đất vọt lên, bốn phương các loại chim chóc, hãy đều chui vào lưới này".

    Nghe lời này, vua Thang than thở:

    - Ô hởi! Như vậy hắn muốn bắt hết mọi loài chim chóc sao!

    Nói xong, vua Thang ra lệnh cho gã thợ săn hãy mở lưới bẫy ra ba bên, chỉ còn chừa lại một bên, rồi dạy hắn ta, nên cầu nguyện như vầy:

    - Nếu muốn bay bên trái thì bay. Nếu muốn bay bên phải thì bay. Nếu không còn muốn thân mạng nữa, thì hãy bay vào lưới võng này.

    Đây là do đạo đức thấm nhuần, nên chư Thánh lưu danh muôn thuở.

    Vương Bổn, Tào Tháo, Tần Tăng, để lại vết nhơ muôn đời. Chư Phật chư Bồ Tát, chư đại tổ sư, đạo đức chân thật. Tuy các ngài không cầu danh mà danh vẫn lưu thiên cổ. Tỳ kheo Thiện Tinh, tỳ kheo ny Bảo Liên Hương, nghiệp tội thâm trọng nên bị đọa Địa ngục, khiến lưu vết nhơ muôn năm.

    Danh này cũng hại người. Nếu mình được khen là giỏi, có đạo đức, hoặc thường làm những việc khó làm, thì sanh tâm vui thích; đó là háo danh. Bị chửi mắng khiến không vui, cũng vì danh. Được khen hay chê dở, nói chung đều bị danh xoay chuyển. Trước mặt, ẩn náo súng đạn. Sau lưng khó tránh hỏa tiển.

    Xưa kia, nơi thiền đường, dùng ngọ xong lại có cháo điểm tâm, rồi lên chánh điện lễ Phật, đến giám liêu uống trà đàm luận. Được khen rằng mình dụng công rất hay, liền sanh tâm hoan hỷ. Bị chê là dụng công không giỏi, thì đôi má ửng hồng, xả không nổi. Các vị tiểu thượng tọa cũng như thế. Được khen là hay thì sanh tâm vui vẻ. Bị chê là dở thì sanh tâm bực tức. Đó cũng là bị danh chuyển.

    Ăn uống cũng rất lợi hại. Quân tử ăn không cầu no, ở không cầu an. Người xưa nhất tâm tại đạo, ăn rau dại để no lòng. Tâm định thì rau tươi cỏ dại đều có mùi vị. Hòa thượng Long Sơn tại Đàm Châu bảo:

    "Một ao lá sen, y vô số

    Hoa tùng ngập đất, ăn vẫn dư

    Vừa bị người đời biết nơi trú

    Lại dời am thất vào thâm u".


    Người thế gian tham ăn, chấp trước mùi vị ngọt chua cay mặn nồng. Ai ai cũng thích mùi ngon vật lạ, nên sát sanh hại mạng, để thỏa thích miệng mồm bao tử. Người thích ăn chay, nhưng khi nấu nướng lại bỏ hành tỏi mỡ gà mỡ heo, để món ăn ngon hơn; chẳng bỏ được tập khí giết sanh hại mạng, vì tâm tánh giết hại vẫn còn. Tuy không ăn thịt, nhưng lại dùng dầu mỡ động vật cùng hành tỏi, thì vẫn phạm giới. Dẫu thức ăn ngon hay dở, một khi đã xuống bao tử rồi thì thành phẩn uế. Sao lại tham cầu cao lương mỹ vị, tranh nhau không ngừng! Ăn càng nhiều thì thải bỏ phẩn uế càng nhiều, có hay ho chi đâu!

    Ngủ lại không thể bàn hết. Một năm có ba trăm sáu mươi ngày. Một ngày có hai mươi bốn tiếng. Ban ngày làm việc, tối đến mơ mộng. Bình thường, một năm ngủ khoảng một trăm tám mươi ngày. Việc ngủ nghỉ chiếm rất nhiều thì giờ, thật hại chết người. Người chân chánh tu hành, rất mến tiếc thời gian. Kinh Di Giáo bảo: "Ban ngày chuyên cần tu tập pháp lành, không để mất thời gian. Đầu hôm cuối hôm, cũng chớ bỏ phế công phu. Giữa đêm tụng Kinh, lấy đó làm việc nghỉ ngơi. Nếu cứ mộng mị vô cớ, thì một đời trải qua vô ích, không đắc được gì cả".

    Do đó, tối đến nếu có mộng mị, phải đổi cách thức tu thiền hay ứng dụng các pháp tu khác, để hàng phục ma ngủ. Người háu ăn làm biếng, chỉ ưa tham ngủ, thường không thể phát đạo tâm, không biết sám hối. Vừa tỉnh giấc bên trái, lại xoay qua ngủ bên phải. Buổi khuya ngủ chưa đủ, ban ngày lại ngủ thêm để bù đắp. Xem Kinh nghe pháp, ngồi thiền niệm Phật cũng ngủ gật, bỏ phí thời giờ rất nhiều, vậy mục đích cứu cánh xuất gia để làm gì?

    Cổ đức bảo:

    - Nghe chuông, nằm lăn không dậy, khiến hộ pháp thiện thần quở. Hiện đời phước đức giảm; chết rồi đọa làm thân rắn.

    Ngài Quy Sơn bảo:

    - Thường thấy những kẻ sơ phát tâm, giải đãi làm biếng, ham ăn ngủ nghỉ, sống cuộc đời vô ích trên thế gian. Thật đáng thương thay, ai bi thiết tâm! Không đành ngậm miệng, nên phải nói lời răn nhắc này.

    Hy vọng, người có tâm cầu đạo, nguyện vượt ra sanh tử, chớ để năm món dục lạc, cùng thất tình xoay chuyển. Hãy nỗ lực chuyên cần tu hành, chớ để thời gian trôi qua vô ích.


    Xác thân nát _ Thế giới mất _ Nguyện vẫn còn.

  7. #146
    NỤ Avatar của nguoi ao lam
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    885
    Thanks
    487
    Thanked 474 Times in 127 Posts
    PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂN
    Phần 7
    __________________________________________________ ______________________________________


    31/ Ngày hai mươi ba tháng năm

    Quân lệnh ở thế gian rất nghiêm khắc. Ban hành lệnh như trời long đất lở, chẳng có ai dám vi phạm. Pháp của Phật thuyết ra cũng như quân lệnh. Là đệ tử Phật phải y giáo phụng hành, quyết không vi phạm chút tơ hào. Hôm trước, tôi có nói về việc lúc làm lễ Bố Tát, thầy Thượng tọa răn nhắc Sa Di:

    - Các con phải thanh tịnh thân miệng ý, chuyên cần học tập Thánh giáo Kinh Luật Luận, cẩn trọng chớ phóng dật.

    Đã xuất gia, phải nhớ đến nỗi thống khổ của sanh tử, như cứu lửa cháy đầu, sao lại phóng dật lười biếng? Chuyên cần học tập Kinh Luật Luận, tức ba tạng Thánh giáo, để tìm ra con đường và phương pháp thoát khỏi sanh tử. Kinh Luật Luận gọi là ba đại tạng. Ba đại tạng tàng chứa hết tất cả văn nghĩa. Kinh nói bàn về định học. Luận nói về giới học. Luận nói về huệ học. Ba tạng này tức là ba học. Kinh có hai nghĩa là thường và pháp, hay kinh tuyến và tràng hoa. Tiếng Phạn gọi tạng Kinh là Tố Đản Lãm Giám, hay Tu Đa La, được dịch là tràng dây; vì đây là lời của đức Phật, có thể nối buộc tất cả pháp, như tràng hoa nối liền tất cả nụ hoa với nhau. Tiếng Phạn gọi tạng Luật là tạng Tỳ Nại Da hay Tỳ Ni, được dịch là Diệt, tức diệt ba nghiệp xấu. Tiếng Phạn gọi tạng Luận là A Tỳ Đạt Ma hay A Tỳ Đàm, dịch là đối pháp, tức dùng trí huệ thù thắng đối quán chân lý mà chấp trì danh xưng. Lại được dịch là pháp vô sở tỷ, tức trí huệ tối thắng, không gì so sánh. Tên riêng của tạng Luận là Ưu Bà Đề Xá, dịch là Luận, tức luận tánh tướng chư pháp mà phát sanh trí huệ thù thắng.

    Người thọ giới tại tam đàn đại giới là những vị Bồ Tát và đại trượng phu. Người đã phát tâm Bồ Đề, phải làm những việc của bậc đại trượng phu và chư Bồ Tát. Bồ Đề là tiếng Phạn, dịch là đạo. Đạo tức là tâm, và là lý; nghĩa là diệu lý của tâm. Thể của tâm đồng với hư không, biến khắp ba cõi mười phương, sum la vạn tượng. Phát tâm Bồ Đề như thế, tức là Bồ Tát đại trượng phu.

    Chư Phật từ bi thuyết ba thừa pháp, bao gồm muôn loại giáo pháp triết lý. Bàn về giới, Phật chế Luật là Tỳ kheo năm năm đầu chuyên cần học giới luật cho tường tận. Năm năm sau, đi khắp nơi nghe giáo tham thiền. Điều này chứng minh rằng việc học giới và giữ giới của đệ tử Phật rất quan trọng. Trong Kinh Phạm Võng có mười giới trọng và bốn mươi tám giới khinh. Phạm mười giới trọng tức phạm tội Ba La Di. Ba La Di dịch là ti tiện, hay thối đọa, bất cộng trụ, đọa nơi bất như ý, đoạn đầu, bị kẻ khác thắng v.v... Phạm giới này là phạm tội nặng nhất trong giới luật. Trong Luật lại có khai giới cùng giá giới, mà đại thừa và tiểu thừa không đồng. Khai có nghĩa là hứa, Giá có nghĩa là chỉ, Hứa làm gọi là khai. Cấm làm gọi là giá. Muốn khai phải xem thời tiết nhân duyên, cùng phương tiện bên ngoài. Không có nhân duyên thì không thể khai. Giá tức là nhất giá hay vĩnh viễn giá. Tiểu Thừa và Đại Thừa có rất nhiều sự tương phản. Sự Trì của Tiểu Thừa tức là phạm của Đại Thừa. Sự Trì của Đại Thừa tức là phạm của Tiểu Thừa. Điều lệ và ngôn từ rõ ràng; hãy xem quyển Tỳ Ni về sự Chỉ Trì và Tác Trì.

    Trong giới cụ túc, tỳ kheo có hai trăm năm mươi giới. Tỳ kheo ni có ba trăm bốn mươi tám giới. Những giới này, phân ra làm năm thiên:


    Xác thân nát _ Thế giới mất _ Nguyện vẫn còn.

  8. #147
    NỤ Avatar của nguoi ao lam
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    885
    Thanks
    487
    Thanked 474 Times in 127 Posts
    PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂN
    Phần 7
    __________________________________________________ ______________________________________


    Thứ nhất, Ba La Di là tội nặng nhất, được dịch là đoạn đầu; nếu phạm thì không thể trở thành tỳ kheo, như đầu bị cắt. Nơi thiên này, tỳ kheo có bốn giới, và tỳ kheo ny có tám giới.

    Thứ hai, tội Tăng Tàng, tiếng Phạn gọi là Tăng Già Bà Thi Sa. Tăng tức là lược nói về tăng già. Tàng dịch là Bà Thi Sa. Tỳ kheo nếu phạm giới này thì gần bị chết, nhưng còn mạng tàn dư, nên phải sám hối trước tăng chúng, thì mới được toàn mạng. Do đó, gọi là Tăng Tàng. Nơi thiên này, tỳ kheo có mười ba giới, còn tỳ kheo ny thì có mười bảy giới.

    Thứ ba, tội Ba Dật Đề, dịch là đọa, tức đọa địa ngục. Nơi thiên này, tỳ kheo có một trăm hai mươi bốn giới, còn tỳ kheo ny thì có hai trăm lẻ tám giới.

    Thứ tư, tội Đề Xá Ni hay Ba La Đề Xá, dịch là hướng bỉ hối, tức sám hối trước một vị tỳ kheo thanh tịnh. Nơi thiên này, tỳ kheo có bốn giới, còn tỳ kheo ny thì có tám giới.

    Thứ năm, tội Đột Kiết La, dịch là ác tác; tội này nhẹ. Nơi thiên này, tỳ kheo có một trăm pháp chúng học, hai pháp bất định, bảy pháp diệt tranh, cộng thành một trăm lẻ chín giới. Tỳ kheo ny có một trăm pháp chúng học và bảy pháp diệt tranh.

    Tỳ kheo nghiêm thủ hai trăm năm mươi giới trong ba nghiệp bốn oai nghi, tức trở thành ba ngàn oai nghi. Mười hai thời khắc luôn tuân thủ tôn chiếu, trì tụng năm mươi bài kệ chú nhỏ trong quyển Tỳ Ni Nhật Tụng. Hàng phục tâm và chế thân không cho làm việc ác.

    Bàn về ba tụ viên giới, mỗi giới đều có đủ nhiếp luật nghi giới, nhiếp thiện pháp giới, nhiêu ích hữu tình giới. Ví dụ, giới cấm giết hại có đầy đủ ba tụ. Xa rời nghiệp ác giết hại, nên gọi là nhiếp luật nghi giới. Vì trưởng dưỡng tâm từ bi mà không giết hại, nên gọi là nhiếp thiện pháp giới. Vì bảo hộ chúng sanh mà không giết hại, nên gọi là nhiêu ích hữu tình giới. Kinh Lăng Nghiêm bảo: "Nếu chư tỳ kheo không mặc áo tơ lụa, đi giày dép da thú, mặc y lông cừu chim chóc, uống sữa đề hồ, thì là chân chánh giải thoát, và không còn trả nghiệp báo, cùng chẳng còn dạo trong ba cõi".

    Do nhân duyên khai giới nên Tiểu Thừa có thể ăn thịt uống sữa. Bồ Tát không thể ăn thịt, mặc tơ lụa, đắp áo lông cừu chim chóc. Đây là sự khác biệt giữa giới khai, giá, trì, phạm của Tiểu Thừa và Đại Thừa.

    Lại nữa, tỳ kheo không được giữ tiền, không giữ một hạt gạo, không ăn thức ăn để qua đêm. Ngày nào khất thực được bao nhiêu thì ăn bấy nhiêu. Phần thức ăn dư thừa, không được giữ lại qua đêm. Bồ Tát được khai mở, tức là cầm giữ tiền thì không phạm. Rượu là giá giới trọng căn bản của năm căn, nên Đại Thừa và Tiểu Thừa không chuẩn cho khai. Chỉ trừ lúc bịnh nặng, ngoài rượu ra không còn thuốc gì để trị, thì phải bạch trước đại chúng, rồi mới được dùng. Nhân duyên khai giá của giới luật rất vi tế, phải thâm nhập nghiên cứu kỸ càng mới có thể hiểu rõ. Phật giáo hưng thịnh hay suy vi, đều do còn giới hay không. Tỳ kheo phạm giới, như trùng trên thân sư tử, ăn thịt sư tử. Thế nên, lúc sắp viên tịch, Phật thuyết kinh Niết Bàn, bảo chư tỳ kheo phải lấy giới luật làm thầy, thì Phật pháp mới trụ thế lâu dài được.

    Phật lại thuyết tứ y pháp, tức là bốn pháp phải nên nương y vào. Thứ nhất, mặc y phấn tảo. Thứ hai, thường đi khất thực. Thứ ba, ngồi trú dưới gốc cây. Thứ tư, dùng thuốc cũ. Bốn loại pháp này là nhân duyên nhập đạo, và là nơi nương tựa của bậc thượng căn lợi khí, nên gọi là tứ y pháp, cũng gọi là bốn hạt giống thánh, vì khiến nhập vào thánh đạo.


    Xác thân nát _ Thế giới mất _ Nguyện vẫn còn.

  9. #148
    NỤ Avatar của nguoi ao lam
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    885
    Thanks
    487
    Thanked 474 Times in 127 Posts
    PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂN
    Phần 7
    __________________________________________________ ______________________________________


    Y phấn tảo được gọi là nạp y. Tỳ kheo dùng những mảnh vải thiêu đốt còn dư lại, vải bị trâu nhặm chuột cắn, vải của người chết bỏ lại, vải bị ngâm nước, vải bị người đời vứt bỏ vì hôi thúi. Lượm những mảnh vải đó, đem về giặt sạch, rồi may đắp thành y, nên gọi là y phấn tảo. Dùng từng miếng vải, may kết lại thành, nên cũng gọi là nạp y. Tỳ kheo dùng y phấn tảo, nên không cần dùng y do đàn việt bố thí. Ngay nơi đó, lìa được tâm tham trước.

    Khất thực, tiếng Phạn gọi là Phân Vệ. Kinh Mười Hai Hạnh Đầu Đà bảo: "Có ba loại thức ăn. Thứ nhất, thức ăn được mời thỉnh. Thứ hai, thức ăn của Tăng chúng. Thứ ba, thức ăn do đi khất thực mà có. Hai loại thức ăn đầu là nhân duyên khởi lậu. Tại sao? Người được thọ thỉnh, thường tự cho đó là phước đức của mình. Nếu không được thỉnh mời thì lại sanh tâm oán ghét người thí chủ, hoặc tự khinh rẻ mình, tức vì tâm tham lam mà ưu sầu, khiến làm chướng ngại đạo. Đối với thức ăn của Tăng chúng, phải thường theo đại chúng mà dùng. Vị trai chủ phải trình thưa với Tăng tri sự. Tâm nếu tán loạn mà thọ thức ăn đó, thì phá hoại sự hành đạo. Vì những nhân duyên đó, phải thường hành pháp khất thực".

    Mỗi đêm, ngủ dưới gốc cây, mà không trú trong nhà. Mỗi ngày ăn cơm một lần.

    Kế đến, Tỳ kheo có bịnh thì không cầu thỉnh thầy thuốc, không dùng thuốc mới, chỉ dùng thuốc mà người vứt bỏ. Bịnh có lành hay không, đều để tự nhiên. Hiện tại, chư Tỳ kheo có ai thủ trì được? Vừa bị bịnh thì bèn có bác sĩ Đông y Tây y cho những toa thuốc bổ phẩm. Đã lâu rồi không còn ai hành bốn pháp y chỉ này.

    Tỳ kheo là tiếng Phạn, được gọi là trừ cận, khất sĩ, phá ác, bố ma. Tỳ kheo làm phước điền cho thế gian. Nếu có ai cúng dường cho vị Tỳ kheo chân chánh một bát cơm, hay nghe vị đó thuyết một bài pháp, thì sẽ tiêu trừ tất cả hoạn nạn cơ cẩn bần cùng, nên gọi là Trừ Cận. Khất Sĩ tức là trên khất cầu pháp của Như Lai để trưởng dưỡng huệ mạng, và dưới khất thực thức ăn của người thế tục để nuôi thân. Khất thực nơi Phật pháp tức là cầu pháp ba mươi bảy phẩm trợ đạo như tứ niệm xứ, tứ như ý túc, tứ chánh cần, năm căn, năm lực, bảy Bồ Đề phần, tám chánh đạo. Phá Ác tức là phá trừ tất cả nghiệp ác do thân miệng ý tạo ra, và chuyển đổi chúng thành mười nghiệp lành. Bố Ma tức là khi vừa xuất gia thọ giới Tỳ kheo, liền thoát khỏi quyến thuộc của ma, nên cung ma bị chấn động, khiến chúng sợ hãi.

    Chúng ta đã là Tỳ kheo, vậy thì ai dám tự bảo mình là Tỳ kheo chân chánh? Xuất gia vì muốn cắt đứt dòng sanh tử, nên phải y theo pháp mà phụng hành. Miệng tụng và tâm phải tư duy. Sáng tối tẩy rửa thân tâm, không để tham lam sân si ái kiến của thế gian xoay chuyển, cũng không nên khởi nhân ngã thị phi, háu ăn làm biếng.


    Xác thân nát _ Thế giới mất _ Nguyện vẫn còn.

  10. #149
    NỤ Avatar của nguoi ao lam
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    885
    Thanks
    487
    Thanked 474 Times in 127 Posts
    PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂN
    Phần 7
    __________________________________________________ ______________________________________


    32/ Ngày hai mươi sáu tháng năm

    Câu đầu trong thiên hai mươi của quyển Luận Ngữ, Khổng Tử bảo:

    - Học phải thường hành.

    Khổng Tử dạy đồ đệ rằng học xong việc gì thì phải hành việc đó. Trong động hay tĩnh, luôn luôn nhớ đến và niệm niệm chẳng quên. Nếu chỉ học đại khái sơ sài, thì công phu không thể tương ưng, và không thể đạt đến cứu cánh. Pháp thế gian và Phật pháp đều như thế. Phải vừa học vừa hành. Phật pháp là thể. Pháp thế gian là dụng. Thể là lý, tức Chân đế. Dụng là sự, tức tục đế. Phải biết đạo lý tam muội ấn của hai đế viên dung vô ngại. Nếu không dung thông thì lạc vào sự bất quân bình. Rời thể mà biểu thị sự, tức là phàm phu phàm tình. Rời sự mà giảng tâm, thì không hiểu tâm địa. Hai đế chân và tục, tên gọi rất nhiều. Chân là thể. Tục là dụng. Trong giới định huệ đều có thể và dụng. Chúng là những danh tự xuất phát từ tâm địa. Nếu có thể quán thông dung hội, thì đại đạo liền thông tận Trường An.

    Xưa kia, Tăng hỏi Triệu Châu:

    - Thế nào là đạo?

    Triệu Châu đáp:

    - Bên ngoài bức tường!

    - Không hỏi đạo đó.

    - Vậy ông hỏi đạo nào?

    - Đại đạo.

    - Đại đạo thông Trường An!

    Lý này như thế nào? Xin quý vị hãy tham cứu. Hiểu rõ thì nơi nơi đều là Phật pháp. Không hiểu rõ thì cứ chấp mãi trên danh tướng. Từ sáng đến tối, bôn ba bận rộn làm ruộng ăn cơm, có khác gì với người thế tục? Hiện tại, có nhiều người cư sĩ cạo đầu. Tăng sĩ lại cũng ăn mặc như người thế tục. Như thế, nơi hình tướng bên ngoài làm sao phân biệt được kẻ Tăng người tục?

    Người xưa bảo:

    - Ruộng tâm chẳng trưởng dưỡng cỏ vô minh. Đất tánh thường khai nở hoa trí huệ.

    Đây là đại đạo thông tận Trường An, tức là nơi khác biệt với người thế tục.

    Người trồng lúa, nếu không nhổ cỏ dại thì khó mà thu hoạch lúa thóc thành tựu. Người tu hành nhổ sạch cỏ vô minh trong ruộng tâm, thì hoa trí huệ mới khai nở. Điều thiết yếu, nếu không để cảnh chuyển và tình không phụ vật, thì cỏ vô minh không thể tăng trưởng. Một khi hoa trí huệ khai nở, thì dầu lời thô ngữ tế đều thuyết lý vô sanh. Người xưa làm được nói được, chứ chẳng giảng lời nói suông trống rỗng. Một câu hỏi một câu đáp, tức là trả lời tại câu hỏi; thổ lộ tâm cơ, biết tất cả đều là diệu dụng. Tâm của chúng ta vì không thường trụ nơi đạo, nên luôn bị cảnh chuyển, và không thể khởi trí huệ chân thật. Nếu thường khởi niệm thống thiết vì khổ sanh tử, và tâm hoàn toàn trụ tại đạo, thì không phân biệt pháp thế gian, pháp xuất thế gian, là nam là nữ, vừa ý hay không vừa ý. Vừa khởi động niệm, tức ma xuất hiện, bị cảnh chuyển. Không phân biệt tức tự làm chủ được, mà không bị cảnh tình chuyển. Người xưa bảo:

    - Quý vị có cây tích trượng. Tôi lại cho quý vị thêm một cây tích trượng.


    Xác thân nát _ Thế giới mất _ Nguyện vẫn còn.

  11. #150
    NỤ Avatar của nguoi ao lam
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    885
    Thanks
    487
    Thanked 474 Times in 127 Posts
    PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂN
    Phần 7
    __________________________________________________ ______________________________________


    Đây là pháp biểu thị. Vì vọng tưởng quá nhiều, tức là quý vị có cây tích trượng. Muốn dẹp trừ vọng tưởng, nên tôi dạy quý vị tu pháp quán sổ tức, quán thân bất tịnh, quán tưởng niệm Phật, tụng kinh lễ Phật, tham khán thoại đầu. Cho quý vị pháp môn tu hành, tức cho quý vị cây tích trượng. Khi dụng công, nếu quý vị có chút thọ dụng, thì trụ nơi bình yên vô sự. Có chướng ngại tức cây tích trượng của quý vị thật vô dụng. Vì thế, nay tôi đoạt lấy cây tích trượng của quý vị. Lành bịnh rồi thì không cần dùng thuốc mãi. Ngược lại, cứ chấp trước dùng thuốc mãi thì sẽ sanh thêm bịnh. Đây là nghĩa đoạt lấy cây tích trượng của quý vị. Ngài Thái Dương bảo:

    "Chớ chấp núi lạnh khác cỏ xanh

    Ngồi trên mây trắng, tông nào chẳng diệu"
    .

    Trong mọi thời, đối với việc tham Thiền hay niệm Phật, điều cần thiết là miệng niệm và tâm tư duy. Mở miệng ngỏ lời mà không phân biệt thị phi, thì suốt ngày được giải thoát; không phiền não, và không khởi tâm động niệm, thì mới có công phu. Nếu không giữ tâm mà để cảnh chuyển, tức sanh phiền não, nên dụng công không có phần lợi ích, và nơi nơi đều bị sóng ngập đầy trời. Xưa kia, lúc đang nhập thất, thấy Tô Đông Pha đến, thiền sư Phật Ấn bảo:

    - Nơi đây không có chỗ ngồi.

    Tô Đông Pha nói:

    - Tạm mượn thân tứ đại của Ngài làm ghế ngồi.

    - Sơn tăng có câu hỏi, nếu học sĩ đáp được thì thỉnh ngồi, bằng ngược lại, hãy để vòng ngọc đái nơi đây.

    Tô Đông Pha đồng ý. Thiền sư bèn hỏi:

    - Bốn đại vốn không, năm ấm chẳng thật có. Vậy cư sĩ ngồi được chỗ nào?

    Tô Đông Pha không đáp được, bèn để lại vòng ngọc đái. Thiền sư cười, rồi nhận lấy. Tô Đông Pha viết kệ:

    "Lưng bịnh khó đưa vòng ngọc đái

    Độn căn nên cung kiếm lạc đường

    Muốn dạy nàng hầu biết ăn xin

    Lại cùng Vân Sơn đắp y cũ".


    Tô Đông Pha tuy thông minh, nhưng đối đáp không ra lời, vì chưa bước đến nơi thật địa.

    Quý vị đồng tham học, làm sao để đến nơi thật địa? Chỉ thiết yếu, miệng niệm tâm tư duy, tinh tấn tẩy rửa suốt ngày.


    Xác thân nát _ Thế giới mất _ Nguyện vẫn còn.

Thông tin chủ đề

Users Browsing this Thread

Hiện có 1 người đọc bài này. (0 thành viên và 1 khách)

Quyền viết bài

  • Bạn không thể gửi chủ đề mới
  • Bạn không thể gửi trả lời
  • Bạn không thể gửi file đính kèm
  • Bạn không thể sửa bài viết của mình
  •