CỘI NGUỒN TRUYỀN THỪA
CHƯƠNG II _ YẾU CHỈ THIỀN TÔNG
__________________________________________________ ______________________________________


12.- THAM THIỀN NHẬN LÝ “SÂU XA MỊT MÙ, TRONG ĐÓ CÓ TINH” CỦA LÃO TỬ LÀ THIỀN TÔNG.

Nhiều người cho rằng : chơn không diệu hữu, diệu hữu chơn không, tĩnh tĩnh tịch tịch, tịch tịch tĩnh tĩnh, chẳng chấp hữu chẳng chấp vô, cũng chẳng chấp phi hữu, cũng chẳng chấp phi vô, chẳng khởi niệm cũng chẳng dứt niệm, tựa như hữu mà phi hữu, tựa như vô mà phi vô, khởi niệm động niệm chẳng bị ngoại duyên xoay chuyển, cho đó là đạo lý của Thiền Tông. Kỳ thật là đạo lý của Lão Tử nói: “Thể của Đạo mập mờ nhấp nhoáng, trong đó có tượng, mập mờ nhấp nhoáng, trong đó có vật, sâu xa mịt mù, trong đó có tinh”, còn “chẳng chấp hữu, chẳng chấp vô, chẳng chấp phi hữu, chẳng chấp phi vô”, là đạo lý của Bà La Môn, hoàn toàn là tác dụng của bộ não, có sanh diệt luân hồi, chẳng phải phương pháp tham thiền.

13.- THAM THIỀN NHẬN LẦM BA THỨ PHÁP MÔN DỤNG CÔNG CỦA GIÁO MÔN LÀ THIỀN TÔNG.

Ba thứ pháp môn của giáo môn tức là Thiền quán Sa Ma Tha, Tam Ma Bát Đề và Thiền Na. Sa Ma Tha dịch là tịch tịnh, Tam Ma Bát Đề dịch là nhiếp niệm, Thiền Na dịch là tịnh lự. Ba thứ thiền quán này ở trong Kinh Viên Giác, Phật đã có giải thích rất kỹ càng, dù trong Kinh Viên Giác có nói: “Ba pháp môn này mười phương Như Lai do đó thành Phật, mười phương Bồ Tát đủ thứ phương tiện, tất cả đồng dị, đều nương theo ba thứ sự nghiệp này, nếu được viên chứng tức thành Viên giác”, ấy chỉ là nói cách tu trong phạm vi giáo môn, nên chính trong Kinh này có nói: “Chỉ trừ người đốn ngộ, và Xiển đề chẳng tin”, nói chỉ trừ người đốn ngộ tức là chỉ trừ Thiền Tông đốn ngộ, chẳng phải giáo môn, nên xưng giáo ngoại biệt truyền.

Phương pháp dụng công của Đại thừa tên gọi rất nhiều mà ý nghĩa chẳng khác, nhưng đều chẳng phải Thiền Tông. Thiền Tông tham thoại đầu, công án, cần nhất là NGHI TÌNH. (Tức là dùng cái tâm không biết để chấm dứt tất cả biết), cho đến hoát nhiên đốn ngộ, dứt hẳn nghi căn, kiến tánh thành Phật. Khi đã minh tâm kiến tánh, nếu có Thiện tri thức mắt sáng thì tìm đến cầu Thiện tri thức ấy ấn chứng, nếu chẳng có người mắt sáng thì lấy Truyền Đăng Lục, Ngũ Đăng Hội Nguyên, Chỉ Nguyệt Lục hoặc các Kinh như Lăng Già, Hoa Nghiêm, Duy Ma Cật v.v... xem kỹ để làm ấn chứng cũng được.