DIỄN ĐÀN PHẬT PHÁP THỰC HÀNH - Powered by vBulletin




Cùng nhau tu học Phật pháp - Hành trình Chân lý !            Hướng chúng sinh đi, hướng chúng sinh đi, để làm Phật sự không đối đãi.


Tánh Chúng sinh cùng Phật Quốc chỉ một,
Tướng Bồ Đề hóa Liên hoa muôn vạn.

Trang 1/35 12311 ... CuốiCuối
Hiện kết quả từ 1 tới 10 của 341
  1. #1
    Ban Điều Hành Avatar của hoatihon
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.150
    Thanks
    1.129
    Thanked 1.675 Times in 683 Posts

    Luận Đại Trí Độ



    LUẬN ĐẠI TRÍ ĐỘ TẬP I

    (Mahàprajnàparamitàsatra)

    Tác giả: Nàgàrjuna (Bồ Tát Long Thọ)

    Dịch Phạn ra Hán: Cưu Ma La Thập - Dịch Việt: Thích Thiện Siêu

    Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam Ấn hành 1997

    MỤC LỤC

    Tập 01

    Lời nói đầu

    Cuốn 1

    Duyên khởi luận

    Giải thích Phẩm Tựa Đầu ( gồm 46 Chương)

    Chương 1: Giải thích Như thị, Ngã văn, Nhất thời

    Chương 2: Tổng thuyết Như thị, Ngã văn

    Cuốn 2

    Chương 3: Giải thích Bà-già-bà

    Cuốn 3

    Chương 4: Giải thích Trú Vương-xá thành

    Chương 5: Giải thích Cọng Ma-ha Tỳ-kheo Tăng

    Chương 6: Giải thích Nghĩa ba chúng.

    Cuốn 4

    Chương 7: Giải thích Bồ-tát

    Cuốn 5

    Chương 8: Giải thích Ma-ha Tát-đỏa

    Chương 9: Giải thích Bồ-tát Công-đức

    Cuốn 6

    Chương 10: Giải thích Mười dụ

    Cuốn 7

    Chương 11: Giải thích Phật thế giới nguyện

    Chương 12: Giải thích Tam muội

    Chương 13: Giải thích Phóng quang

    Cuốn 8

    Cuốn 9

    Chương 14: Giải thích Hiện Phổ thân

    Chương 15: Giải thích Mười Phương chư Bồ-tát đến

    Cuốn 10

    Cuốn 11

    Chương 16: Giải thích Xá-lợi-phất nhân duyên

    Chương 17: Giải thích Đàn Ba-la-mật

    Chương 18: Giải thích Tán thán Đàn Ba-la-mật

    Chương 19: Giải thích Tướng của Đàn Ba-la-mật

    Chương 20: Giải thích Đàn Ba-la-mật pháp thí

    Cuốn 12

    Cuốn 13

    Chương 21: Giải thích Thi-la Ba-la-mật

    Chương 22: Giải thích Nghĩa của giới tướng

    Chương 23: Giải thích Tán thán nghĩa Thi-la Ba-la-mật

    Cuốn 14

    Giải thích Thi-la Ba-la-mật

    Chương 24: Giải thích Sằn-đề Ba-la-mật

    Cuốn 15

    Giải thích Sằn-đề Ba-la-mật pháp nhẫn

    Chương 25: Giải thích Tỳ-lê-gia Ba-la-mật

    Cuốn 16

    Giải thích Tinh tấn Ba-la-mật

    Cuốn 17

    Chương 26: Giải thích Thiền Ba-la-mật

    Cuốn 18

    Chương 27: Giải thích Bát-nhã Ba-la-mật

    Chương 28: Giải thích Tướng Bát-nhã

    Cuốn 19

    Chương 29: Giải thích Ba mươi bảy phẩm trợ đạo

    Cuốn 1

    Chương 30: Giải thích Ba tam muội, Bốn thiền, bốn vô lượng tâm, Bốn vô sắc định

    Phụ lục

    Nội dung luận Đại Trí Độ

    Khái quát sự truyền dịch kinh Bát-nhã


    https://thuvienhoasen.org/p19a3262/muc-luc

    Lần sửa cuối bởi hoatihon; 04-22-2018 lúc 09:11 AM

    Bọt vỡ tan rồi!, Mộng dở dang ...

  2. The Following 2 Users Say Thank You to hoatihon For This Useful Post:

    Thanh Mai (04-22-2018),Thanh Trúc (04-22-2018)

  3. #2
    Ban Điều Hành Avatar của hoatihon
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.150
    Thanks
    1.129
    Thanked 1.675 Times in 683 Posts
    ĐẠI TRÍ ĐỘ LUẬN
    Tập 1 _ Lời nói đâu
    __________________________________________________ ______________________________________


    Lời Nói Đầu


    Kinh Bát-Nhã (Prajna) được lưu hành rất sớm tại Ấn độ. Khoảng 700 năm sau khi Phật diệt độ (cuối thế kỷ II đầu thế kỷ III Tây lịch), lúc Bồ-tát Long Thọ (Nagarjuna) ra đời đã có hai bộ kinh Bát-Nhã hoàn thiện là Tiểu Phẩm Bát Nhã, còn gọi là Bát-Nhã 8.000 bài tụng (Astasàhasrikà - Prajnãpàramità) gồm 10 cuốn 29 Phẩm và bộ Đại Phẩm Bát-Nhã 25.000 bài tụng (Pancavimsati - Sàhasrikà - Prajnãpàramita) gồm 27 hay 30, 40 cuốn 9 Phẩm.

    Bồ-tát Long Thọ viết luận giải thích Kinh Đại Phẩm Bát-Nhã đề tên là Maha Prajnãpàramità sastra, gồm có 100 cuốn 90 Phẩm.

    Năm 402 Tây lịch, Tam tạng Pháp sư Cưu-ma-la-thập (Kumarajva) đến Trung hoa dịch kinh Đại Phẩm Bát-Nhã ra Hán văn đề là Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật-đa kinh (tương đương Hội thứ hai trong kinh Đại Bát-nhã của ngài Huyền Trang dịch) và dịch Luận Maha Prajnãpàramità ra Hán văn tên là Đại Trí Độ luận hay Đại Trí Độ Kinh luận, Trí luận, Đại luận, gồm 100 cuốn 90 Phẩm, từ Phẩm Tựa Đầu cho đến Phẩm Chúc Lụy cuối.

    Có hai thể luận là Tôn Luận và Thích Luận. Lấy một ý nào trong Kinh nêu làm tôn chỉ rồi diễn dịch, hệ thống thành luận gọi là Tôn Luận, như luận Thập Nhị Môn, Trung luận, Du Già Sư Địa luận v.v… Còn viết luận giải thích Kinh như luận Đại Trí Độ gọi là Thích Luận.

    Căn cứ theo luận Đại Trí Độ thì trong 90 Phẩm, 66 Phẩm đầu của Kinh là nói về Bát-nhã đạo, còn 24 Phẩm sau của Kinh là nói về Phương tiện đạo. Nếu căn cứ theo sách Đại Phẩm Kinh Nghĩa Lược Tự của ngài Cát Tạng thì trong 90 Phẩm của Kinh, 6 Phẩm đầu Phật nói cho hạng thượng căn như Xá-lợi-phất v.v… Phẩm thứ 7 đến Phẩm thứ 14 Phật sai ngài Tu-bồ-đề nói cho hàng trung căn; từ Phẩm 45 đến Phẩm 90 là Phật nói cho hàng hạ căn như chư Thiên, loài Người.

    Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già; dẫn dụng nhiều Kinh sách bao hàm cả kinh A-hàm, luận A-tỳ-đàm của các Bộ phái, các Kinh Pháp Hoa, Hoa Nghiêm, Duy-ma-cật, A-di-đà, luôn cả tư tưởng của phái Thắng luận… Cho nên ví nó như là một bộ Phật Giáo Bách Khoa Toàn Thư.


    Bọt vỡ tan rồi!, Mộng dở dang ...

  4. The Following 2 Users Say Thank You to hoatihon For This Useful Post:

    cunconmocoi (04-28-2018),Thanh Mai (04-22-2018)

  5. #3
    Ban Điều Hành Avatar của hoatihon
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.150
    Thanks
    1.129
    Thanked 1.675 Times in 683 Posts
    ĐẠI TRÍ ĐỘ LUẬN
    Tập 1 _ Lời nói đâu
    __________________________________________________ ______________________________________


    Tác phẩm của Bồ-tát Long Thọ có nhiều như Trung luận, Thập Nhị Môn luận, Đại Trí Độ luận, Thập Trụ Tỳ-bà-sa luận, Bồ-đề Tư lương luận, Hồi Tránh luận v.v… nhưng trong đó chủ yếu nhất phải kể là Trung luận và luận Đại Trí Độ. Ở Trung luận thì nhấn mạnh về mặt giảng lý chơn không, còn ở luận Đại Trí Độ giải thích kinh Đại Phẩm Bát-nhã thì nhấn mạnh về mặt thuyết giảng lý thật tướng diệu hữu. Không thấu triệt tính chơn không của hiện hữu thì hữu ấy là vọng hữu, thấu triệt được tính chơn không của hiện hữu thì hữu ấy là diệu hữu.

    Tư tưởng "Không" của Bát-nhã là cốt gạt bỏ mọi quan niệm vọng tưởng cố định, luôn luôn nhìn thế giới theo hai mặt (nhị biên) là sinh diệt, có không, thường đoạn, một khác, hữu biên, vô biên v.v… Vì vậy mà chơn tánh của thế giới bị bóp méo, bị che lấp. Chỉ có thể nói chơn tánh của thế giới là không, là vô tướng, không sanh không diệt, không đi không lại, không có không không v.v… trong đó không có thể thêm vào một thuộc tánh nào nữa được

    Đễ thấu triệt "Không tánh" ấy người ta thường theo hai lối quán là Tích không quán và Thể không quán. Quán pháp phân tích thấy các pháp không tự có mà phải do nhân duyên hòa hợp mới có, có một cách giả tạo, trống rỗng, không có thật tánh; như vậy gọi là Tích không quán. Nếu không thông qua sự quán sát phân tích nhân duyên, mà chỉ thể nhận trực tiếp "Không tính" thấy sự vật như thấy trăng dưới nước, bóng trong gương v.v…; như vậy gọi là Thể không quán.

    Bát-nhã chứng Chơn Không, không phải là dùng tư tưởng để hư vô hóa sự vật, hư vô hóa thế giới, mà là để thấy rõ thật tánh của sự vật, của thế giới là Không. Dù cho khi ta đang do vọng tưởng thấy sự vật có thì tánh nó vẫn là Không, một cái Không tuyệt đối, không vướng một tướng gì; nó như một luồng gió mạnh thổi tan đi bao nhiêu đám mây mù lởn vởn che lấp tâm trí, làm cho mọi hành động bị lúng túng, vướng vấp, hạn hẹp. Và khi tâm trí đã ra khỏi mây mù vọng tưởng thì mọi sinh hoạt sẽ tự tại vô ngại không vướng vào danh tướng ngã nhân. Khi đã có lối nhìn của Bát-nhã thì các pháp môn tu hành đều được thành cứu kính Ba-la-mật.

    Cái Không theo Bát-nhã là cái Không tức nơi có mà không, chứ không phải diệt Có thành Không; cái Không theo Bát-nhã là cái Không tuyệt đối, chứ không phải cái Không đối đãi, Không đối với Có.

    Các pháp, tánh Không mà chấp cho là thật Có ấy là vọng tưởng lý luận. Nhưng nếu lại chấp tướng Không mà phá hủy tất cả, thì lại rơi vào tà kiến. Vì vậy mà trong luận này đã cảnh tỉnh như sau:

    "Người tà kiến nói các pháp Không, lại chấp thủ tướng Không của các pháp. Người tà kiến tuy miệng nói hết thảy không, mà ở nơi tham ái thì sanh tham ái, nơi sân giận thì sanh sân giận, nơi kiêu mạn thì sanh kiêu mạn, nơi ngu si thì sanh ngu si, chỉ tự dối mình như vậy. Còn người chơn thật biết Không, thì tâm không lay động, nơi tất cả các chỗ kiết sử sanh không còn sanh lại được. Ví như hư không, khói lửa không làm nhơ, mưa lớn không làm ướt. Quán không được như vậy, các phiền não không còn dính tâm".

    Và một đoạn khác nói: "Người quán Chơn không, trước hết thực hành bố thí, trì giới, thiền định, tâm được mềm dịu, các kiết sử mỏng, vậy sau mới đắc Chơn không. Còn người tà kiến thì không có các việc như vậy, họ chỉ muốn dùng ức tưởng phân biệt, tà kiến thủ Không. Ví như người chưa hề biết muối, khi thấy người khác nêm muối vào thức ăn, người ấy hỏi lý do thì được người kia trả lời là muối sẽ làm cho đồ ăn ngon lành. Người ấy suy nghĩ, như vậy thì muối càng nhiều càng ngon, liền lấy toàn muối bỏ vào đầy miệng mà ăn, bị muối làm lở miệng, trở lại trách hỏi người kia, người kia nói sao anh ngu vậy, phải biết trù lượng nhiều ít hòa hợp mới ngon, chứ sao lại ăn cả toàn muối! Cũng như vậy, người vô trí nghe nói "Không Giải Thoát môn", liền bỏ hết không chịu thực hành các công việc công đức mà chỉ muốn chứng được Không. Thế là người tà kiến, dứt bỏ các thiện căn".

    Tôi ước nguyện dịch bộ luận Đại Trí Độ này từ lâu nhưng nay mới đủ duyên thực hiện được bước đầu. Luận dẫn dụng nhiều Kinh luận, trong đó có các luận A-tỳ-đàm, được dẫn ra để chỉ chỗ sai lầm hoặc để giải thích tinh thần Bát-nhã. Nếu muốn hiểu cho hết thì phải có thì giờ đọc các luận A-tỳ-đàm mới được.

    Luận này đã được ông Étienne Lamotte dịch ra tiếng Pháp nhan đề là Le Traité de la Grande vertu de Sagesse và Trường Đại học Louvain xuất bản tập đầu năm 1944, tập 3 năm 1970, tập 5 năm 1980. Các tập khác không rõ xuất bản năm nào vì hiện trước mắt tôi chưa có được.

    Tôi nghĩ rằng bản chữ Hán, chữ Pháp và bản chữ Việt đối chiếu với nhau thì có thể giúp người đọc hiểu dễ dàng hơn.

    Phật lịch 2541
    Từ Đàm, tháng 9 năm 1997

    Thích Thiện Siêu


    Bọt vỡ tan rồi!, Mộng dở dang ...

  6. The Following 2 Users Say Thank You to hoatihon For This Useful Post:

    chimvacgoidan (04-22-2018),Thanh Mai (04-22-2018)

  7. #4
    Ban Điều Hành Avatar của hoatihon
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.150
    Thanks
    1.129
    Thanked 1.675 Times in 683 Posts
    ĐẠI TRÍ ĐỘ LUẬN
    Tập 1 _ Cuốn 1 _ Duyên Khởi Luận
    __________________________________________________ ______________________________________


    Cuốn 1

    Duyên Khởi Luận

    "Đường lớn Trí Độ, Phật khéo đến,
    Biển lớn Trí Độ, Phật thấu suốt,
    Nghĩa, tướng Trí Độ, Phật vô ngại
    Kính lễ Phật, Trí Độ vô đẳng.

    Hạt kiến có không, dứt không còn,
    Thật tướng các pháp, Phật đã nói,
    Thường trụ bất hoại, sạch phiền não.
    Kính lễ Pháp, mà Phật tôn trọng.

    Biển cả Thánh chúng làm ruộng phước,
    Bậc học, vô học để trang nghiêm,
    Đã sạch giống ái của đời sau,
    Ngã sở đã dứt, căn đã trừ.

    Đã xả các sự nghiệp thế gian,
    Là trú xứ của các công đức.
    Tối thượng giữa tất cả chúng hội,
    Kính lễ chân tịnh Đại đức Tăng.

    Đã nhất tâm cung kính Tam Bảo,
    Các bậc cứu thế: Ngài Di-lặc (Maitreya)
    Trí tuệ đệ nhất: Xá-lợi-phất (Sàriputta),
    Vô tránh không hạnh: Tu-bồ-đề (Subhùti)

    Tôi nay theo sức muốn diễn nói,
    Nghĩa thật tướng đại trí bờ kia.
    Nguyện các Đại đức, bậc Thánh trí,
    Nhất tâm khéo thuận nghe tôi nói".



    Bọt vỡ tan rồi!, Mộng dở dang ...

  8. The Following 3 Users Say Thank You to hoatihon For This Useful Post:

    chimvacgoidan (04-23-2018),cunconmocoi (04-23-2018),Thanh Mai (04-23-2018)

  9. #5
    Ban Điều Hành Avatar của hoatihon
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.150
    Thanks
    1.129
    Thanked 1.675 Times in 683 Posts
    ĐẠI TRÍ ĐỘ LUẬN
    Tập 1 _ Cuốn 1 _ Duyên Khởi Luận
    __________________________________________________ ______________________________________


    Hỏi:

    * Vì nhân duyên gì mà Phật thuyết Kinh Đại Bát-nhã Ba-la-mật? Phép tắc của chư Phật không vì vô sự và nhân duyên nhỏ mà tự giảng pháp; cũng như núi Tu-di (Sumeru) cũng không vì vô sự và nhân duyên nhỏ mà rung động. Vậy, nay có nhân duyên to lớn gì mà Phật thuyết Kinh Đại Bát-nhã Ba-la-mật?

    Đáp:

    * Ở trong Tam Tạng, Phật dùng đủ loại thí dụ để thuyết pháp cho hàng Thanh-văn mà không thuyết đến Bồ-tát đạo. Duy trong Kinh Bản-mạt (Pùrvaparàntàka sutra) của Trung-A-hàm (Madhyamà), Phật tuy có thọ ký cho Bồ-tát Di-lặc rằng: "Đời sau ông sẽ được thành Phật hiệu là Di-lặc", mà cũng không nói đến Bồ-tát hạnh. Nay Phật muốn giảng đủ các Bồ-tát hạnh cho Di-lặc v.v… cho nên thuyết Kinh Đại Bát-nhã Ba-la-mật.

    * Lại nữa, có vị Bồ-tát tu Niệm Phật Tam muội, Phật muốn khiến họ đối với Tam muội này được tăng ích, nên thuyết Kinh Đại Bát-nhã Ba-la-mật. Như Phẩm đầu trong kinh Đại Bát-nhã Ba-la-mật nói: "Phật hiện thần túc, phóng ra ánh sáng sắc vàng chiếu khắp mười phương thế giới nhiều như cát sông Hằng. Thị hiện thân lớn, sáng suốt trong sạch, đủ các thứ sắc đẹp đầy khắp hư không, Phật ở giữa chúng, đoan chánh thù diệu không ai sánh kịp; thí như núi chúa Tu-di nổi giữa biển cả, các Bồ-tát nhờ thấy sự thần biến của Phật, nên tăng thêm lợi ích đối với Niệm Phật Tam muội. Vì lẽ đó, Phật thuyết Kinh Đại Bát-nhã Ba-la-mật.

    * Lại nữa, Bồ-tát (Tất-đạt-đa) lúc mới sanh, phóng ra ánh sáng đầy khắp cả mười phương, đi bảy bước, nhìn khắp bốn phương, với âm thanh như Sư tử rống, Ngài thuyết bài kệ:

    "Phần thai sanh đã hết,

    Đây là thân cuối cùng

    Ta đã được giải thoát,

    Sẽ lại độ chúng sanh".

    Sau khi phát thệ như vậy, thân Ngài lớn dần, Ngài muốn từ bỏ thân thuộc, xuất gia tu đạo. Nửa đêm thức dậy, nhìn thấy các ca nhi, hậu phi, thể nữ, hình trạng như thây thối, Ngài liền sai Xa-nặc (Chandaka) thắng con Ngựa trắng, nửa đêm vượt thành, đi được mười hai do tuần, đến trong cánh rừng có vị Tiên nhân tên Bạt-già-bà (Bhàrgavà) đang ở, lấy dao cắt tóc, cởi y phục quí giá đổi lấy áo Tăng-già-lê thô xấu, rồi ở bên sông Ni-liên-thuyền (Nairànjana), sáu năm tu khổ hạnh, ngày ăn một hạt mè hoặc một hạt gạo, nhưng tự nghĩ: "Đây không phải là Chánh đạo". Bấy giờ Bồ-tát bỏ chỗ tu khổ hạnh, đến dưới gốc Bồ-đề, ngồi tòa Kim-cang. Ma vương đem mười tám ức vạn đồ chúng đến phá hoại Bồ-tát, Bồ-tát dùng sức Công đức và Trí tuệ hàng phục bọn Ma mà chứng quả Vô thượng Bồ-đề. Bấy giờ vị vua Trời cõi Phạm-thiên, chúa tể của ba ngàn đại thiên thế giới, tên là Thi-khí (Sikkin) cùng với chư Thiên ở cõi Sắc, Thích-đề-hoàn-nhơn cùng với chư Thiên ở cõi Dục và Tứ-thiên-vương cùng đến trước Phật, khuyến thỉnh Thế tôn khởi đầu quay bánh xe Chánh pháp. Lại vì Bồ-tát nhớ đến sở nguyện Đại Từ Đại Bi của mình nên nhận lời thỉnh cầu mà thuyết pháp. Pháp sâu xa trong các pháp là Bát-nhã Ba-la-mật vậy. Vì thế Phật thuyết Kinh Đại Bát-nhã Ba-la-mật.


    Bọt vỡ tan rồi!, Mộng dở dang ...

  10. The Following 3 Users Say Thank You to hoatihon For This Useful Post:

    chimvacgoidan (04-23-2018),cunconmocoi (04-23-2018),Thanh Mai (04-23-2018)

  11. #6
    Ban Điều Hành Avatar của hoatihon
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.150
    Thanks
    1.129
    Thanked 1.675 Times in 683 Posts
    ĐẠI TRÍ ĐỘ LUẬN
    Tập 1 _ Cuốn 1 _ Duyên Khởi Luận
    __________________________________________________ ______________________________________


    * Lại nữa, có kẻ hoài nghi rằng Phật không chứng được Nhất thiết trí, vì cớ sao? Vì các pháp vô lượng vô số, làm sao một người mà có thể biết tất cả các pháp? Phật trú trong pháp Bát-nhã Ba-la-mật thật tướng thanh tịnh như hư không, vô lượng vô số, mà tự nói lên lời chân thật rằng: "Ta là bậc Nhất thiết trí, muốn dứt hết thảy nghi ngờ của chúng sanh"; vì thế Phật thuyết Kinh Đại Bát-nhã Ba-la-mật.

    * Lại nữa, có những chúng sanh đáng được độ, nhưng vì đại Công đức và Trí tuệ của Phật vô lượng, khó biết khó hiểu, do đó họ bị ác sư mê hoặc, tâm đắm chìm trong Tà pháp, không vào được Chánh đạo. Vì hạng người đó, Phật khởi tâm Đại Từ, duỗi tay Đại Bi cứu vớt, đưa vào Phật đạo. Do đó mà Phật tự thị hiện ra Công đức tối diệu, phát ra đại Thần lực, như trong Sơ phẩm của Kinh Bát-nhã Ba-la-mật nói: "Phật nhập vào Chánh định tên là Tam muội Vương. Khi ra khỏi Chánh định, Phật dùng Thiên nhãn quán khắp mười phương thế giới, khắp các lỗ chân lông của Ngài đều mỉm cười, và từ dưới bàn chân có tướng nghìn bánh xe của Ngài phát ra sáu trăm ngàn vạn ức ánh sáng đủ màu, chiếu khắp mười phương vô lượng vô số thế giới của chư Phật nhiều như cát sông Hằng, làm cho tất cả đều chói sáng". Phật muốn tuyên thị Thật tướng của hết thảy các pháp, đoạn trừ nghi kết của hết thảy chúng sanh, nên thuyết Kinh Đại Bát-nhã Ba-la-mật.

    * Lại nữa, có người ác Tà, ôm lòng tật đố, phỉ báng rằng: "Trí tuệ của Phật không ra khỏi (trí tuệ của) loài người, mà chỉ dùng huyễn thuật làm mê hoặc đời". Vì để dứt lòng cống cao tà mạn của những người đó, nên Phật hiện ra vô lượng Thần lực, vô lượng Trí tuệ lực, từ trong Bát-nhã Ba-la-mật, tự nói lên rằng" "Ta là đấng có đầy đủ vô lượng Thần thông phước đức, tôn quí nhất trong ba cõi, che chở cho tất cả. Nếu ai phát một niệm Ác thì mắc phải vô lượng tội, nếu phát một niệm tịnh tín thì được hưởng phước lạc cõi Người, cõi Trời, và chắc sẽ được quả Niết-bàn". Lại vì muốn khiến mọi người tín thọ Chánh pháp, nên nói: "Ta là Đại sư, có đủ Mười lực, Bốn vô sở úy, đứng ở hàng Thánh chúa, tâm được tự tại, với âm thanh như Sư tử hống mà quay bánh xe Chánh pháp, là tối tôn thượng trong tất cả thế giới". Lại nữa, Phật Thế Tôn vì muốn cho chúng sanh hoan hỉ mà nói Kinh Bát-nhã Ba-la-mật này, rằng: "Các người nên sanh tâm hoan hỉ lớn. Vì cớ sao? Vì hết thảy chúng sanh đều bị mắc trong lưới Tà kiến, bị bọn Ác sư dị học làm mê hoặc; còn Ta thì từ trong lưới Tà kiến ác sư mà ra khỏi, là bậc Đại sư đủ Mười lực, khó có thể gặp, nay các ngươi đã gặp được, Ta sẽ theo thời khai mở các Pháp tạng thâm áo như Bảy mươi bảy phẩm trợ đạo v.v… như vậy các ngươi mặc tình thu lượm. Lại nữa, hết thảy chúng sanh vì bệnh kiết sử gây ra phiền não. Từ khi có sanh tử đến bây giờ, không ai trị được bệnh ấy, lại thường bị Ngoại đạo Ác sư mê hoặc. Ta nay ra đời làm Đại y vương, tập hợp các thứ pháp dược, các ngươi hãy uống đi". Vì thế Phật thuyết Kinh Đại Bát-nhã Ba-la-mật.


    Bọt vỡ tan rồi!, Mộng dở dang ...

  12. The Following 3 Users Say Thank You to hoatihon For This Useful Post:

    chimvacgoidan (04-23-2018),cunconmocoi (04-23-2018),Thanh Mai (04-23-2018)

  13. #7
    Ban Điều Hành Avatar của hoatihon
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.150
    Thanks
    1.129
    Thanked 1.675 Times in 683 Posts
    ĐẠI TRÍ ĐỘ LUẬN
    Tập 1 _ Cuốn 1 _ Duyên Khởi Luận
    __________________________________________________ ______________________________________


    * Lại nữa, có người nghĩ: "Phật cũng như người, cũng có sanh tử, chịu sự đói khát, lạnh nóng, già bệnh". Phật muốn trừ ý nghĩ đó nên thuyết Kinh Đại Bát-nhã Ba-la-mật này, khai thị rằng: "Thân Ta là không thễ nghĩ nghì, các Phạm thiên vương và Tổ phụ chư Thiên, dù trải qua kiếp số nhiều như cát sông Hằng, muốn suy lường thân Ta, tìm xét âm thanh Ta, còn không thể trắc lường, huống là trí tuệ Tam muội của Ta?", như kệ nói:

    "Đối tật tướng các pháp,

    Các hàng Phạm-thiên-vương,

    Hết thảy chúa trời đất,

    Mê mờ không thể biết.

    Pháp ấy rất thâm diệu,

    Không ai đo lường được.

    Phật ra đời khai mở,

    Sáng như mặt trời chiếu".


    * Lại như khi Phật Chuyển xe pháp lần đầu tiên, Bồ-tát Ứng-trì từ tha phương đến muốn trắc lường thân Phật, vượt lên quá hư không vô lượng cõi Phật, đến thế giới của Phật Hòa-thượng, mà thấy thân Phật vẫn y như vậy, bèn nói kệ:

    "Hư không không biên tế,

    Công đức Phật vẫn thế,

    Dẫu muốn lường thân Phật,

    Uổng công không lường được.

    Vượt quá cõi hư không,

    Vô lượng các cõi Phật,

    Thấy thân Thích Sư tử,

    Vẫn như cũ không khác.

    Thân Phật như núi vàng,

    Diễn xuất ánh sáng lớn

    Tướng tốt tự trang nghiêm,

    Như hoa nở mùa Xuân".


    Như thân Phật vô lượng, ánh sáng và âm hưởng cũng vô lượng. Các công đức và Giới, Định, Tuệ … của Phật cũng đều vô lượng, như Tam Mật ở trong kinh Mật Tích, trong đó có nói rộng.

    Lại, khi Phật mới sanh, chạm đến đất liền đi bảy bước, miệng tự cất tiếng nói, nói xong lặng im như các trẻ nít, không đi, không nói, ba năm được mớm sữa, các bà mẹ nuôi nấng, dần dần lớn khôn; nhưng thân Phật thì vô số trong khắp các thế gian, vì độ chúng sanh mà hiện làm kẻ phàm phu. Song kẻ phàm phu khi sanh, thân phần, các căn và ý thức chưa thành tựu, bốn oai nghi nơi thân là ngồi, nằm, đi, đứng và nói năng, thinh nín cùng các cách thức của con người đều chưa hiểu rõ. Trải qua ngày tháng năm dần dần học tập mới đủ các cách thức của người, chứ sao nay Phật mới sanh ra liền có thể nói được, đi được, rồi sau mới không thể nói và đi? Điều này thật là lạ? Nên biết, chỉ vì Phật dùng phương tiện lực hiện thân làm theo cách thức của người, đi đứng nằm ngồi như người để khiến chúng sanh tin theo pháp thâm diệu. Nếu Bồ- tát khi mới sanh mà đã đi dược, nói được, người đời tất sẽ nghĩ: "Nay mới thấy người như vậy, thế gian chưa từng có. Đây chắc là Trời, Rồng, Qủy, Thần. Những điều người ấy học không phải là điều chúng ta làm được, vì cớ sao? Vì nhục thân sanh tử của chúng ta do bị nghiệp kiếp sử lôi kéo, không được tự tại nên những điều sâu như vậy của người ấy ai mà theo nổi?" Vì nghĩ như thế nên họ tuyệt vọng, không được thành pháp khí của Thánh hiền. Vì hạng người đó mà Phật sanh ra trong vườn Lâm-tỳ-ni, tuy có thể đi đến ngay dưới chân cội Bồ-đề mà thành Phật, song Ngài vẫn dùng sức phương tiện, thị hiện làm hài đồng, ấu thơ, thiếu niên rồi thành nhân. Theo từng thời kỳ mà hưởng thụ sự vui chơi, học tập nghệ thuật, trang phục, hưởng thọ ngũ dục, đủ cách thức của người thường, dần dần thấy sự khổ già bệnh chết mà sanh tâm nhàm chán, nửa đêm vượt thành xuất gia, đi đến chỗ của tiên nhân Uất-đặc-già (Udraka) và A-la-la (Àlala) thị hiện làm đệ tử, nhưng không thực hành theo pháp của các vị ấy. Tuy thường dùng thần thông, tự nhớ đời trước, trì giới hành đạo trong thời đức Phật Ca-diếp, mà nay vẫn thị hiện tu khổ hạnh sáu năm cầu đạo. Bồ tát tuy làm chủ ba ngàn Đại thiên thế giới, mà vẫn thị hiện dẹp phá ma quân, thành Vô thượng đạo; vì tùy thuận theo pháp thế gian, nên hiện ra các biến hóa đó. Nay ở trong Bát-nhã Ba-la-mật thị hiện đại thần thông và trí huệ lực. Các người nên biết thân Phật nhiều vô số khắp các thế gian.


    Bọt vỡ tan rồi!, Mộng dở dang ...

  14. The Following 3 Users Say Thank You to hoatihon For This Useful Post:

    chimvacgoidan (04-23-2018),cunconmocoi (04-23-2018),Thanh Mai (04-23-2018)

  15. #8
    Ban Điều Hành Avatar của hoatihon
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.150
    Thanks
    1.129
    Thanked 1.675 Times in 683 Posts
    ĐẠI TRÍ ĐỘ LUẬN
    Tập 1 _ Cuốn 1 _ Duyên Khởi Luận
    __________________________________________________ ______________________________________


    * Lại nữa, có người đáng được độ mà hoặc vì rơi vào chấp kiến nhị biên, hoặc vì vô trí nên chỉ cầu cái khoái lạc nơi thân; hoặc có người vì đạo mà tu theo khổ hạnh. Những người như thế, đối với Đệ nhất nghĩa, họ bị mất phần Niết-bàn chánh đạo. Phật muốn phá hai lối cực đoan đó, đưa họ vào Trung đạo, nên thuyết Kinh Đại Bát-nhã Ba-la-mật.

    * Lại nữa, để phân biệt quả báo cúng dường Sanh thân và Pháp thân nên thuyết Kinh Đại Bát-nhã Ba-la-mật. Như đã nói trong phẩm Xá-lợi tháp.

    * Lại nữa, vì muốn giảng thuyết A-bệ-bạt-trí và tướng của A-bệ-bạt-trí. Lại vì muốn nói rõ Ma huyễn, Ma ngụy, Ma sự. Lại vì nhân duyên để người ở đời đương lai cúng dường Bát-nhã Ba-la-mật. Lại vì muốn thọ ký cho hàng Tam thừa, nên thuyết Kinh Đại Bát-nhã Ba-la-mật. Như Phật bảo A-nan: "Sau khi Ta bát Niết-bàn, Bát-nhã Ba-la-mật này sẽ truyền đến phương Nam, từ phương Nam truyền đến phương Tây. Sau đó năm trăm năm (Phật lịch) sẽ truyền đến phương Bắc. Ở đây có nhiều thiện nam, thiện nữ nhơn tin pháp cúng dường các thứ hoa hương, anh lạc, tràng phan, kỹ nhạc, đèn sáng, trân bảo, cùng các tài vật khác; hoặc tự chép, hoặc khuyên người khác chép, hoặc đọc tụng, hoặc nghe giảng thuyết, chơn chánh ghi nhớ, tu hành, đúng pháp mà cúng dường. Người này nhờ nhân duyên đó mà hưởng thụ các thứ cực lạc của thế gian và đến đời cuối cùng thì chứng Tam thừa mà vào Vô dư Niết-bàn". Những việc nhân duyên như vậy, xem trong tác phẩm của Kinh. Thế nên thuyết Kinh Đại Bát-nhã Ba-la-mật.

    * Lại nữa, vì muốn thuyết tướng Đệ nhất nghĩa Tất-đàn, nên Phật thuyết Kinh Đại Bát-nhã Ba-la-mật. Có bốn thứ Tất-đàn: Một là Thế giới Tất-đàn, hai là Các các vị nhân Tất-đàn, ba là Đối trị Tất-đàn, bốn là Đệ nhất nghĩa Tất-đàn. Trong bốn Tất-đàn đã tổng nhiếp hết thảy mười hai bộ Kinh, tám vạn bốn ngàn Pháp tạng, đều là thật không trái ngược nhau. Trong Phật pháp tất cả đều thật. Có pháp thật vì theo Thế giới Tất-đàn, có pháp thật vì theo Các các vị nhân Tất-đàn, có pháp thật vì theo Đối trị Tất-đàn, có pháp thật vì theo Đệ nhất nghĩa Tất-đàn.

    - Sao gọi là Thế giới Tất-đàn? (Tất đàn theo nghĩa phổ thông). Vì có những pháp theo nhân duyên hòa hợp nên có, chứ không có tính biệt lập. Ví như xe, do có càng, nhịp, trục, bánh hoà hợp lại nên có, chứ không có chiếc xe riêng. Con người cũng như thế, do năm uẩn (ngũ chúng) hòa hợp nên có, chứ không có con người riêng.

    Hỏi: Như Phật nói: "Ta dùng Thiên nhãn thanh tịnh thấy các chúng sanh chết chỗ này sanh chỗ kia, chịu quả báo tùy theo nghiệp thiện ác. Người có nghiệp thiện thì sanh trong loài Trời, Người; người có nghiệp ác thì bị đọa vào ba đường ác". Lại nữa, Kinh nói: "Một người ra đời, mà nhiều người được nhờ phúc lạc lợi ích; đó là Phật Thế Tôn vậy". Như trong Pháp Cú nói: "Tự mình cứu lấy mình, người khác làm sao cứu được. Tự mình thực hành thiện trí là tự cứu hay nhất".

    Như trong Kinh Bình Sa Vương Nghinh Phật nói: "Người phàm không nghe pháp, ngươì phàm đắm trước nơi ngã". Lại trong Kinh Phật Nhị Dạ nói: "Phật từ đêm Đắc đạo, đến đêm Bát Niết-bàn, những Kinh giáo Phật thuyết khoảng thời gian giữa hai đêm ấy, tất cả đều thật, không điên đảo". Nếu thật không có người thì tại sao Phật lại nói người (trong câu: Ta dùng Thiên nhãn thanh tịnh thấy các chúng sanh) ?

    Đáp: Người v.v… vì theo Thế giới Tất-đàn nên có, vì theo Đệ nhất nghĩa Tất-đàn nên không. Còn như như, pháp tánh , thật tế, vì theo Thế giới Tất-đàn nên không, vì theo Đệ nhất nghĩa Tất-đàn nên có. Người … cũng như thế , vì theo Đệ nhất nghĩa Tất-đàn nên không, vì theo Thế giới Tất-đàn nên có; vì có các nhân duyên năm uẩn nên có người. Ví như sữa do nhân duyên của sắc, hương, vị, xúc cho nên có, nếu sữa thật không thì nhân duyên của sữa cũng phải là không, nay nhân duyên của sữa thật có, nên sữa cũng phải là có. Chẳng phải như cái đầu thứ hai, cánh tay thứ ba của một người, là không có nhân duyên mà chỉ có giả danh. Các tướng (hình thức) như thế nên gọi là Thế giới Tất-đàn.

    -Sao gọi là Các các vị nhân Tất-đàn? (Tất đàn trong ý nghĩa cá biệt với từng người). Quán sát tâm hành của từng người mà nói pháp cho họ. Đối trong một việc mà hoặc có người nghe được, có người không nghe được. Như trong Kinh nói: "Do nghiệp tạp báo mà tạp sanh ra trong thế gian, được tạp xúc, tạp thọ". Lại trong Kinh Phá-quần-na nói: "Không có người xúc, không có người thọ".


    Bọt vỡ tan rồi!, Mộng dở dang ...

  16. #9
    Ban Điều Hành Avatar của hoatihon
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.150
    Thanks
    1.129
    Thanked 1.675 Times in 683 Posts
    ĐẠI TRÍ ĐỘ LUẬN
    Tập 1 _ Cuốn 1 _ Duyên Khởi Luận
    __________________________________________________ ______________________________________


    Hỏi: Giữa hai Kinh này, làm sao dung thông được?

    Đáp: Vì có kẻ nghi ngờ đời sau, không tin tội phước, làm hạnh bất thiện, rơi vào kiến chấp đoạn diệt (đoạn kiến). Vì muốn dứt mối nghi của người đó, trừ ác hạnh của họ, tức là muốn nhổ "đoạn kiến" của người đó nên nói tạp sanh trong thế gian, được tạp xúc, tạp thọ. Lại ngoại đạo Phá-quần-na chấp có ngã, có Thần, rơi vào chấp thường (thường kiến), nên khi Phá-quần-na hỏi Phật: "Thưa Đại đức Thế Tôn, ai thọ?" Nếu Phật trả lời có ai thọ thì kia bèn rơi vào chấp thường. Ngã kiến của người ấy tăng gấp bội, bền chắc, không thể di chuyển. Cho nên đối với người này, Phật không nói là có người thọ, người xúc, Nhưng tướng (hình thức) như thế gọi là các các vị nhân Tất đàn.

    -Sao gọi là Đối trị Tất-đàn? (Tất đàn trong ý nghĩa đối trị theo bệnh). Có pháp, về ý nghĩa đối trị thì có, mà thật tính thì không như các thứ cỏ, thuốc, uống, ăn có tính chất nặng, nhiệt, béo, chua, mặn, đối với bệnh phong thì gọi nó là thuốc; còn đối với bệnh khác thì không phải thuốc. Nếu các thứ cỏ, thuốc, ăn, uống có tính chất nhẹ, lạnh, ngọt, đắng, rít, đối với bệnh nhiệt thì gọi nó là thuốc; còn đối với bệnh khác thì không phải thuốc. . Nếu các thứ cỏ, thuốc, ăn, uống có tính chất nhẹ, cay, đắng, rít, nóng đối với bệnh hàn thì gọi nó là thuốc; còn đối với bệnh khác thì không phải thuốc. Cách trị tâm bệnh trong Phật pháp cũng như thế. Phép tư duy quán bất tịnh đối với bệnh tham dục thì gọi là pháp đối trị hay, còn đối với bệnh sân nhuế thì không gọi là hay, không phải là pháp đối trị, sao vậy? Quán thân xấu xa ô cấu gọi là quán bất tịnh, nếu người là sân nhuế mà quán thân xấu xa ô cấu, thì càng làm tăng thêm lửa sân nhuế. Tư duy về từ tâm đối trị bệnh sân nhuế thì gọi là pháp đối trị hay; còn đối với bệnh tham dục thì không gọi là hay, không phải là pháp đối trị, vì sao? Vì từ tâm đối với chúng sanh thường cầu việc tốt, quán sát công đức, nếu là người tham dục mà cầu việc tốt, quán sát công đức thì càng tăng thêm lòng tham dục … Pháp quán nhân duyên, đối với bệnh ngu si thì gọi là pháp đối trị hay; còn với bệnh tham dục, sân nhuế thì không gọi là hay, không phải là pháp đối trị, vì sao vậy? Vì trước có tà quán mới sinh tà kiến, mà tà kiến tức là ngu si.

    Hỏi: Trong phật pháp có nói Mười hai nhân duyên rất sâu xa, như nói "Phật bảo A-nan, pháp Nhân duyên ấy rất sâu xa, thấy khó biết, khó tỏ ngộ, khó quán sát. Người có tâm vi tế, tuệ thiện xảo, mới hiểu được, còn người ngu si đối với pháp thiển cận còn khó hiểu, huống là pháp nhân duyên rất sâu xa!". Thế tại sao nay lại nói người ngu si nên quán pháp Nhân duyên?

    Đáp: Người ngu si đây không phải như trâu dê ngu si, mà là người này muốn cầu đạo chân thật lại đem tà tâm quán sát nên sanh ra đủ thứ tà kiến, người ngu si như thế hãy nên quán sát Nhân duyên, gọi là pháp đối trị hay, nếu với người có nhiều sân nhuế, tham dục, mong cầu khoái lạc, muốn nhiễu hại kẻ khác, thì Nhân duyên quán không là hay, không phải là pháp đối trị, chỉ có tư duy về bất tịnh, về từ tâm mới là hay, là pháp đối trị với hai hạng người ấy, vì sao? Vì hai phép quán này có thể nhổ mũi tên độc sân nhuế và tham dục. Lại nữa, những chúng sanh điên đảo chấp thường, không biết rõ các pháp chỉ có trong tánh cách tương tợ tương tục. Những người như thế mà quán Vô thường là pháp Đối trị Tất đàn, chứ không phải Đệ nhất nghĩa Tất đàn, vì sao? Vì hết thảy các pháp, tự tánh là không, như kệ nói:

    "Vô thường thấy là thường,

    Ấy gọi là điên đảo.

    Trong không, không vô thường,

    Chỗ nào thấy có thường?"


    Bọt vỡ tan rồi!, Mộng dở dang ...

  17. #10
    Ban Điều Hành Avatar của hoatihon
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.150
    Thanks
    1.129
    Thanked 1.675 Times in 683 Posts
    ĐẠI TRÍ ĐỘ LUẬN
    Tập 1 _ Cuốn 1 _ Duyên Khởi Luận
    __________________________________________________ ______________________________________


    Hỏi: Hết thảy pháp Hữu vi đều tương ưng với vô thường, ấy là Đệ nhất nghĩa, vì sao? Vì hết thảy pháp Hữu vi đều có ba tướng: Sanh, trụ, diệt. Vì trước tiên là sanh, tiếp đến trụ, sau đó diệt; tại sao nay nói vô thường không phải là thật?

    Đáp: Pháp Hữu vi đúng ra không có ba tướng ấy, vì sao? Vì ba tướng ấy không thật. Nếu các pháp sanh, trụ, diệt là tướng Hữu vi thì trong tướng sanh lẽ ra cũng phải có đủ ba tướng; vì sanh là pháp Hữu vi. Như vậy mỗi một tướng lại đều có đủ ba tướng, thế thì vô cùng. Trụ và diệt cũng như thế. Nếu trong mỗi sanh, trụ, diệt lại không có sanh, trụ, diệt thì sanh, trụ, diệt đó không nên gọi là pháp Hữu vi, vì sao? Vì tướng của pháp Hữu vi (sanh, trụ, diệt) nơi đó không có. Do nghĩa đó, các pháp vô thường, là không phải Đệ nhất nghĩa Tất-đàn.

    Lại nữa, nếu tất cả đều thật sự là bản tánh vô thường, thời không có hạnh nghiệp và quả báo, vì sao? Vì vô thường tức là sanh rồi diệt mất. Ví như hạt giống mục nát không thể sanh ra quả, như vậy thời không có hạnh nghiệp, không có hạnh nghiệp thiện sao có quả báo? Nay theo pháp của các Hiển thánh đều nói có quả báo, kẻ thiện trí có thể tín thọ; vậy không nên nói không quả báo. Do đó, các pháp không phải là vô thường tánh. Vì nói có các nhân duyên vô lượng như thế, nên không được nói các pháp là vô thường tánh. Tất cả pháp Hữu vi vô thường, khổ, vô ngã cũng như vậy. Các tướng như thế gọi là Đối trị Tất-đàn.

    - Sao gọi là Đệ nhất nghĩa Tất-đàn? (Tất đàn trong ý nghĩa tuyệt đối) Hết thảy pháp tánh , hết thảy luận nghị, ngữ ngôn, hết thảy pháp và phi pháp, mỗi mỗi có thể phân biệt phá tán, còn pháp chơn thật của chư Phật, Bích-chi Phật, A-la-hán hành trì thì không thể phá, không thể tán. Những gì không thông suốt ở trong ba thứ Tất-đàn trên thì ở trong đây thông được. Nhưng thông như thế nào? Thông là xa lìa mọi lỗi lầm, không thể biến đổi, không thể vượt hơn, vì sao? Vì trừ Đệ nhất nghĩa Tất-đàn, còn các nghị luận khác, các Tất-đàn khác, đều có thể bị phá hoại, như bài kệ trong kinh Chúng-nghĩa nói:

    "Mỗi tự nương kiến chấp,

    Hý luận khởi cạnh tranh,

    Biết thế là biết thật,

    Không biết là báng Pháp.

    Không nhận pháp kẻ khác,

    Ấy là người vô trí,

    Những người có hý luận

    Thảy đều là vô trí.

    Hoặc nương điều mình thấy,

    Mà sanh các hý luận,

    Nếu cho đó tịnh trí,

    Thì ai cũng tịnh trí".



    Bọt vỡ tan rồi!, Mộng dở dang ...

Thông tin chủ đề

Users Browsing this Thread

Hiện có 1 người đọc bài này. (0 thành viên và 1 khách)

Quyền viết bài

  • Bạn không thể gửi chủ đề mới
  • Bạn không thể gửi trả lời
  • Bạn không thể gửi file đính kèm
  • Bạn không thể sửa bài viết của mình
  •