DIỄN ĐÀN PHẬT PHÁP THỰC HÀNH - Powered by vBulletin




Cùng nhau tu học Phật pháp - Hành trình Chân lý !            Hướng chúng sinh đi, hướng chúng sinh đi, để làm Phật sự không đối đãi.


Tánh Chúng sinh cùng Phật Quốc chỉ một,
Tướng Bồ Đề hóa Liên hoa muôn vạn.

Trang 29/35 ĐầuĐầu ... 192728293031 ... CuốiCuối
Hiện kết quả từ 281 tới 290 của 341
  1. #281
    Ban Điều Hành Avatar của hoatihon
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.150
    Thanks
    1.129
    Thanked 1.675 Times in 683 Posts
    ĐẠI TRÍ ĐỘ LUẬN
    Tập 1 _ Cuốn 17 _
    __________________________________________________ ______________________________________


    - Thế nào là mắng trách xúc? Xúc là nguyên nhân lớn sanh ra các kiết sử , là gốc rễ trói buộc tâm, vì sao? Vì bốn căn kia mỗi thứ đương lấy phần của mình, còn xúc này biến khắp thân thức, vì chỗ phát sanh rộng, nên sanh nhiều nhiễm trước, sự nhiễm trước này khó lìa, vì sao? Như người nhiễm trước sắc, quán thân có ba mươi sáu thứ bất tịnh thời sanh tâm nhàm chán, còn nếu sanh nhiễm trước xúc, thời tuy biết là bất tịnh nhưng lòng tham xúc tinh tế êm dịu, quán bất tịnh không có ích, thế nên khó lìa.

    Lại nữa, vì nó khó xả cho nên thường vì nó mà gây trọng tội. Nếu đọa địa ngục, địa ngục có hai bộ: Một là băng lạnh, hai lửa cháy. Trong hai ngục này đều lấy thân xúc chịu tội, khổ độc muôn mối. Xúc là chỗ đại hắc ám, là đường hiểm nguy nan... Các nhân duyên như vậy là mắng trách tế hoạt xúc dục. Như vậy là mắng trách năm dục.

    Trừ năm cái (che lấp), người bị tham dục cái thì cách đạo rất xa, vì sao? Vì dục là trú xứ của các thứ não loạn; nếu tâm tham đắm dục thì không do đâu gần đạo được. Như bài kệ trừ dục cái nói:

    “Người vào đạo biết hổ thẹn,

    Ôm bát làm phước chúng sanh.

    Tại sao phóng túng trần dục,

    Chìm đắm vào nơi năm căn.

    Mặc giáp cầm dao gậy,

    Thấy giặc bỏ chạy lui,

    Người khiếp nhược như thế,

    Người đời đều khinh cười.

    Tỳ kheo làm khất sĩ,

    Cạo tóc mặc Cà-sa,

    Bị ngựa năm căn cầm.

    Chuốc cười cũng như thế.

    Lại như người hào quý,

    Mặc đẹp để nghiêm thân,

    Mà đi xin cơm áo,

    Chuốc cười nơi mọi người.

    Tý-kheo bỏ trang sức,

    Xấu hình để nhiếp tâm,

    Mà còn cầu dục lạc,

    Chuốc cười cũng như thế..

    Đã xả năm dục lạc,

    Bỏ đi không ngó lại,

    Tại sao lại muốn được,

    Nhu ngu mửa lại ăn.




    Bọt vỡ tan rồi!, Mộng dở dang ...

  2. #282
    Ban Điều Hành Avatar của hoatihon
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.150
    Thanks
    1.129
    Thanked 1.675 Times in 683 Posts
    ĐẠI TRÍ ĐỘ LUẬN
    Tập 1 _ Cuốn 17 _
    __________________________________________________ ______________________________________


    Người tham dục như vậy,

    Không biết xét bản nguyện,

    Cũng không biết tốt xấu,

    Cuồng say theo khát ái.

    Pháp tôn trọng tàng quý,

    Tất cả đều bỏ hết,

    Hiền trí không thân cận,

    Kẻ ngu si ưa gần.

    Các dục khi cầu khổ,

    Được rồi nhiều sợ hãi,

    Khi mất lòng sầu não,

    Mọi thời đều không vui.

    Các dục hoạn như vậy,

    Lấy gì xả bỏ nó?

    Được các vui thiền định,

    Thời không bị dối gạt.

    Lạc dục đắm không chán,

    Lấy gì diệt trừ được?

    Nếu được bất tịnh quán,

    Tâm ấy tự nhiên không.

    Đắm dục không tự giác,

    Lấy gì ngộ được tâm?

    Hãy quán già bệnh chết,

    Mới ra khỏi bốn châu.

    Các dục khó phóng xả,

    Lấy gì xa được nó?

    Nếu ưa vui thiện pháp.

    Dục ấy tự nhiên dứt.

    Các dục khó mở được,

    Lấy gì để mở nó

    Quán thân biết thật tướng,

    Thời không bị ràng buộc.

    Các quán pháp như vậy,

    Diệt được các lửa dục.

    Ví như đổ mưa lớn,

    Lửa nội đều dập tắt”.


    Các nhân duyên như vậy là diệt trừ được dục cái.



    Bọt vỡ tan rồi!, Mộng dở dang ...

  3. #283
    Ban Điều Hành Avatar của hoatihon
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.150
    Thanks
    1.129
    Thanked 1.675 Times in 683 Posts
    ĐẠI TRÍ ĐỘ LUẬN
    Tập 1 _ Cuốn 17 _
    __________________________________________________ ______________________________________


    Người bị sân nhuế cái thì mất gốc các thiện pháp, là nguyên nhân đọa vào các ác đạo, oan gia của pháp lạc, giặc lớn của thiện tâm, kho chứa các thứ ác khẩu. Như Phật nói kệ dạy đệ tử hay sân rằng:

    “Ngươi nên biết suy ghĩ,

    Thọ thân ở trong thai.

    Nhơ nhớp tối tăm khổ,

    Sanh cũng được gian nan.

    Đã được ý nghĩ này,

    Mà còn không diệt sân.

    Thời nên biết bọn ấy,

    Chính là ngưởi vô tâm.

    Nếu không quả báo tội,

    Cũng không bị qưở trách.

    Cho nên phải từ nhẫn,

    Huống người nhiều khổ quả.

    Hãy quán già bệnh chết,

    Không một ai tránh khỏi.

    Nên khởi tâm từ bi,

    Cớ sao đem ác hại.

    Chúng sanh giặc oán nhau,

    Đâm chém chịu khổ độc.

    Cớ sao người tu thiện,

    Mà còn gây khổ hại.

    Thường nên hành từ bi,

    Định tâm tu các thiện,

    Không nên ôm ác ý,

    Xâm hại đến tất cả.

    Nên siêng tu đạo pháp,

    Việc não hại không làm,

    Thiện ác thế không đều,

    Như nước lửa trái nhau.

    Sân giận che lấp tâm,

    Không biết được tốt xấu,

    Cũng không biết lợi hại,

    Không biết sợ ác đạo.

    Không kể người khổ não,

    Không biết thân tâm mệt,

    Trước tự chịu nhân khổ,

    Sau đem khổ đến người.

    Nếu muốn dứt sân giận,

    Hãy suy nghĩ từ tâm,

    Tự độc cư thanh nhàn,

    Ngừng việc dứt nhân duyên.

    Nên sợ già bệnh chết,

    Chín thứ sân não trừ,

    Như vậy tư duy “từ”.

    Thời dứt được sân độc”.




    Bọt vỡ tan rồi!, Mộng dở dang ...

  4. #284
    Ban Điều Hành Avatar của hoatihon
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.150
    Thanks
    1.129
    Thanked 1.675 Times in 683 Posts
    ĐẠI TRÍ ĐỘ LUẬN
    Tập 1 _ Cuốn 17 _
    __________________________________________________ ______________________________________


    Các nhân duyên như vậy, trừ sân nhuế cái.

    Thùy miên cái là có thể phá hỏng ba việc của đời này là dục lạc, lợi lạc và phước đức, có thể phá hỏng cái vui rốt ráo của đời này đời sau không khác gì người chết, chỉ còn có hơi thở. Như một vị Bồ-tát nói kệ qưở trách đệ tử ưa ngủ rằng:

    “Ngươi dậy chớ ôm thân thối nằm,

    Đủ thứ bất tịnh giả danh ngươi,

    Như mắc trọng bệnh, tên vào thân,

    Các thống khổ nhòm, đâu được ngủ!

    Lửa chết đốt hết thảy thế gian,

    Ngươi đang cầu ra, không được ngủ!

    Như người bị trói đem đi giết,

    Tai hại đến nơi, đâu được ngủ!

    Giặc kết chưa dứt, hại chưa trừ,

    Như cùng rắn độc ngủ chung nhà,

    Cũng như lâm trận giữa gươm súng.

    Bấy giờ đâu thể được ngủ nghỉ,

    Ngủ là tối tăm không thấy gì,

    Ngày ngày dối gạt cướp sáng người,

    Vì ngủ che tâm không hiểu gì,

    Tội lỗi như vậy đâu được ngủ”!


    Các nhân duyên như vậy, là mắng trách thùy miên cái.

    Trạo hối cái: trạo là dao động, phá hại tâm xuất gia, như người nhiếp tâm, còn không thể trụ được, huống chi dao động, tán loạn. Người dao động tán loạn như voi say không móc câu, như lạc đà sức mũi, không thể cấm chỉ, như kệ nói:

    “Ngươi đã cạo đầu mặc cà-sa,

    Cầm bình bát gốm đi khất thực,

    Tại sao vui đắm sự trạo hý,

    Đã không pháp lợi, mắt thể lạc”.


    Hối là như người phạm tội lớn, thường ôm lòng sợ hãi, mũi tên hối hận găm vào lòng, cứng không thể nhổ, như kệ nói:

    “Không nên làm mà làm,

    Nên làm mà không làm,

    Lửa hối não thiêu đốt.

    Đời sau đọa ác đạo.

    Nếu người tội biết hối,

    Hối rồi nên phóng xả,

    Như vậy tâm an vui,

    Không nên thường chớ nhặt.

    Có hai thứ hối hận,

    Không làm hoặc đã làm,

    Do thế, hối dính tâm,

    Ấy là tướng người ngu.

    Không vì tâm hối hận,

    Không làm mà hay làm,

    Các việc ác đã làm,

    Không thể khiến không làm”.


    Các nhân duyên như vậy, là mắng trách trạo hối cái.



    Bọt vỡ tan rồi!, Mộng dở dang ...

  5. #285
    Ban Điều Hành Avatar của hoatihon
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.150
    Thanks
    1.129
    Thanked 1.675 Times in 683 Posts
    ĐẠI TRÍ ĐỘ LUẬN
    Tập 1 _ Cuốn 17 _
    __________________________________________________ ______________________________________


    Nghi cái là nghi ngờ che lấp nên không được định tâm đối với các pháp. Định tâm không có nên đối với Phật pháp trống không, không được gì. Ví như người đi vào núi báu, nếu không có tay thì không thể lấy được gì. Như bài kệ nói về nghĩa “Nghi” rằng:

    “Như người ở đường rẽ,

    Nghi hoặc không chỗ tới,

    Đối các pháp thật tướng,

    Nghi hoặc cũng như vậy.

    Vì nghi không cần cầu.

    Thật tướng của các pháp,

    Nghi ấy từ si sanh,

    Tệ ác trong tệ ác.

    Trong pháp thiện bất thiện,

    Sanh, tử và Niết-bàn,

    Là pháp quyết thật có,

    Nơi đó chớ sanh nghi.

    Ngươi nếu sanh tâm nghi,

    Thần chết, sứ ngục trói,

    Như Sư tử bắt Nai,

    Không thể được giải thoát.

    Ở đời tuy có nghi,

    Nên theo pháp diệu thiện,

    Ví như xem đường rẽ,

    Đường tốt ấy nên đi”.


    Các nhân duyên như vậy nên xả bỏ nghi.

    Bỏ được năm cái (ngăn che) ấy, như mắc nợ được thoát, bệnh nặng được lành, ở chỗ đói khát được đến nước giàu, như từ ngục được ra, như trong chỗ giặc ác được tự thoát khỏi, an ổn không hoạn nạn. Hành giả cũng như vậy , trừ bỏ năm cái thì tâm được an ổn, thanh t ịnh khoái lạc. Ví như mặt trơøi, mặt trăng bị năm thứ che mờ là khói, mây, bụi, mù, tay La-hầu A-tu-la che, thời không thể soi sáng. Tâm người cũng như vậy, bị năm cái che ngăn tự mình không lợi cũng không thể ích người.

    Nếu hay qưở trách năm dục, trừ năm cái, hành năm pháp là dục, tinh tấn, niệm, xảo tuệ, nhất tâm, hành năm pháp này thời được năm chi, thành tựu Sơ thiền.

    Dục là muốn ra khỏi dục giới, muốn được Sơ thiền.

    Tinh tấn là xuất gia trì giới, đầu đêm, cuối đêm chuyên tinh không giải đãi, tiết chế ăn uống, nhiếp tâm không cho dong ruổi, tán loạn.

    Niệm là nghĩ tới cái vui ở Sơ thiền, biết dục giới bất tịnh, cuồng loạn, mê hoặc, đáng hèn, còn Sơ thiền là tôn trọng đáng quý.

    Xảo tuệ là quán sát, so lường với cái vui ở dục giới, cái vui ở Sơ thiền nặng nhẹ, được mất.

    Nhất tâm là thường buộc tâm vào trong một duyên không cho phân tán.

    Lại nữa, chuyên cầu Sơ thiền, phóng xả cái vui dục giới. Ví như sợ kẻ oán muốn diệt trừ thời không bị oán làm hại. Như Phật vì kẻ Bà-la-môn đắm dục nói: “Ta vốn quán sát dục, dục là sợ hãi, là nhân lo khổ; dục là ít vui nhiều khổ; dục là lưới ma, ràng buộc khó ra, dục thiêu đốt, khô kiệt các thứ vui. Ví như rừng cây, bốn bề bốc lửa; dục như tới hố lửa rất đáng sợ hãi, như ép bức rắn độc, như giặc oán rút dao, như ác La-sát, như độc ác vào miệng, như uống nước đồng sôi, như ba dòng voi điên, như đi tới hố sâu lớn, như sư tử chặn đường, như cá Ma-kiệt hả miệng, các dục cũng như vậy, rất đáng sợ hãi. Nếu đắm trước các dục, khiến cho người khổ não. Người đắm dục cũng như ngục tù, như nai giữa vòng vây, như chim mắc lưới, như cá nuốt câu, như beo bắt chó, như quạ giữa đàn chim cắt, như rắn gặp heo rừng, như chuột ở giữa mèo, như bọn mù đi tới hố, như ruồi đậu dầu nóng, như người yếu đuối ra trận, như người khèo chân gặp lửa, như vào sông nước mặn sôi, như liếm mật dính đầu lưỡi dao, như thái thịt giữa ngã tư đường, như vải mỏng phủ rừng dao, như hoa che bất tịnh, như mật bôi bình độc, như hòm rắn độc, như mộng hư dối, như vay mượn phải trả về, như trò huyễn gạt trẻ con, như lửa không thật, như chìm nước lớn, như thuyền vào miệng cá Ma-kiệt, như mưa đá hại lúa, như sấm sét đánh người. Các dục cũng như vậy, hư dối không thật, không bền không mạnh, vui ít khổ nhiều. Dục là Ma quân phá công đức thiện, thường cướp hại chúng sanh. Như vậy là các thí dụ về dục.

    Mắng năm dục, trừ năm cái, hành năm pháp được đến Sơ thiền.



    Bọt vỡ tan rồi!, Mộng dở dang ...

  6. #286
    Ban Điều Hành Avatar của hoatihon
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.150
    Thanks
    1.129
    Thanked 1.675 Times in 683 Posts
    ĐẠI TRÍ ĐỘ LUẬN
    Tập 1 _ Cuốn 17 _
    __________________________________________________ ______________________________________


    Hỏi: Tám bội xả, tám thắng xứ và mười nhất thiết nhập, bốn vô lượng tâm, các định tam muội, những định như vậy, sao không gọi là Ba-la-mật, mà chỉ gọi thiền Ba-la-mật?

    Đáp: Công đức của các định ấy, đều là tư duy tu. Thiền Trung hoa nói là Tư duy tu, nói thiền Ba-la-mật là bao gồm tất cả.

    Lại nữa, Thiền tối đại như vua, nói thiền là gồm tất cả, nói định thời không gồm được, vì sao? Trong Tứ thiền, trí và định ngang nhau nên vui: Vị đáo địa, Trung gian địa, trí nhiều mà định ít. Định vô sắc giới thì định nhiều mà trí ít, nên các chỗ này không vui. Ví như xe một bánh mạnh, một bánh yếu, thời không đi an ổn, trí và định không ngang nhau cũng như vậy.

    Lại nữa, nơi Tứ thiền có bốn đẳng tâm, năm thần thông, tám bội xả, tám thắng xứ, mười nhất thiết xứ, vô tránh tam muội, nguyện trí, đỉnh thiền, tự tại định, luyện thiền, mười bốn biến hóa tâm, ban châu ban, các tam muội Thủ Lăng Nghiêm, v.v... của Bồ-tát, lược nói thời có một trăm hai mươi, còn các tam muội bất động v.v... của chư Phật lược nói thời có một trăm lẻ tám, và Phật đắc đạo, xả thọ mạng, các công đức diệu định như vậy, đều ở trong Thiền cả. Do vậy, nên gọi Thiền là Ba-la-mật, các định khác không gọi là Ba-la-mật .

    Hỏi: Trước đây, ông nói mắng năm dục, trừ năm cái, hành năm pháp, được Sơ thiền, tu việc gì, nương đạo gì có thể được Sơ thiền?

    Đáp: Nương bất tịnh quán và các môn định An-na-ban-na... Như bài kệ thiền nghĩa trong thiền kinh nói:

    “Lìa dục và ác pháp,

    Có giác và có quán,

    Ly sanh được hỷ lạc,

    Người ấy vào Sơ thiền.

    Đã được lìa lửa dâm,

    Thời được định trong mát,

    Như người rất nóng bức,

    Vào ao lạnh thời vui.

    Như nghèo được kho báu,

    Hỷ giác làm động tâm,

    Phân biệt, ấy là quán.

    Vào Sơ thiền cũng vậy.

    Biết giác quán loạn tâm,

    Tuy thiện mà phải lìa,

    Như nước lớn đứng lặng,

    Sóng dậy cũng không thấy.

    Ví như người rất mệt,

    Khi an ổn nằm ngủ,

    Nếu có tiếng kêu gọi,

    Thì tâm rất não loạn.

    Khi nhiếp tâm vào thiền,

    Vì giác quán làm não,

    Cho nên trừ giác quán,

    Được vào nhất thức xứ.

    Nhờ nội tâm thanh tịnh,

    Định sanh được hỷ lạc,

    Được vào Nhị thiền đây,

    Hỷ tâm mạnh rất vui.

    Nhất tâm đệ nhất định,

    Yên lặng không niệm gì,

    Sợ hỷ muốn bỏ nó,

    Cũng như bỏ giác quán.

    Do thọ nên có hỷ,

    Mất hỷ thời sanh lo,

    Lìa hỷ lạc thân thọ.

    Xả niệm và phương tiện.

    Thánh nhân hay xả được,

    Người khác xả là khó,

    Nếu biết lạc là nạn.

    Thấy bất động rất yên.

    Ưu hỷ trước đã trừ,

    Khổ lạc nay cũng dứt,

    Xả niệm tâm thanh tịnh,

    Vào trong đệ Tứ thiền.

    Lạc trong đệ Tam thiền,

    Vô thường động nên khổ,

    Trong dục giới đoạn ưu,

    Sơ Nhị thiền trừ hỷ.

    Cho nên Phật Thế Tôn,

    Nói trong đệ Tứ thiền,

    Trước đã đoạn ưu hỷ,

    Nay được trừ khổ lạc”.




    Bọt vỡ tan rồi!, Mộng dở dang ...

  7. #287
    Ban Điều Hành Avatar của hoatihon
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.150
    Thanks
    1.129
    Thanked 1.675 Times in 683 Posts
    ĐẠI TRÍ ĐỘ LUẬN
    Tập 1 _ Cuốn 17 _
    __________________________________________________ ______________________________________


    Lại nữa, trì giới thanh tịnh, nhàn cư một mình, nhiếp giữ các căn, đầu đêm cuối đêm chuyên tinh suy nghĩ, vứt bỏ thú vui bên ngoài, lấy thiền làm vui, lìa các dục và pháp bất thiện, nương vị đáo địa được Sơ thiền. Sơ thiền, như trong luận tạng nói: Thiền có bốn thứ: 1- Vị tương ưng, 2- Tịnh, 3- Vô lậu, 4- Năm uẩn do báo đắc nhiếp thuộc Sơ thiền, trong ấy hành giả vào tịnh vô lậu. Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền cũng như vậy. Như Phật nói: “Nếu có Tỳ-kheo lìa các dục và pháp ác bất thiện, có giác có quán, ly dục sanh hỷ lạc vào Sơ thiền”.

    Các dục là năm dục ái trước như sắc v.v... Suy nghĩ phân biệt, mắng trách dục như trước nói. Pháp ác bất thiện là năm cái như tham dục v.v...

    Lìa hai việc trong ngoài ấy nên được Sơ thiền. Tướng của Sơ thiền là có giác có quán, hỷ lạc, nhất tâm. Có giác có quán là được công đức thiện pháp chưa từng được của trong Sơ thiền, nên tâm rất kinh ngạc tỉnh ngộ, thường bị lửa dục thiêu đốt, nên khi được Sơ thiền như người vào ao nước trong mát, lại như người nghèo bỗng được kho báu. Hành giả suy nghĩ phân biệt về tội lỗi ở Dục giới và biết công đức lợi ích của Sơ thiền rất nhiều, tâm rất hoan hỷ; ấy gọi là có giác có quán.

    Hỏi: Có giác có quán là một pháp hay hai pháp?

    Đáp: Hai pháp, thô tâm mới nghĩ đến, ấy gọi là giác. Tế tâm phân biệt kỷ, ấy gọi là quán. Ví như đánh chuông, khi tiếng mới phát lớn, ấy là giác, sau tiếng nhỏ lần, ấy gọi là quán.

    Hỏi: Như luận nói: “Từ Dục giới cho đến Sơ thiền, trong một tâm có giác quán tương ưng, sao nay nói thô tâm mới nghĩ đến gọi là giác, tế tâm phân biệt kỷ gọi là quán ?

    Đáp: Hai pháp tuy ở một tâm mà hai tướng không đều, khi “giác” thời “quán” không rõ ràng, khi “quán” thời “giác” không rõ ràng. Ví như khi mặt trời mọc thì các sao không hiện ra. Hết thảy tâm tâm số pháp tùy thời mà đặt tên cũng như vậy. Như Phật nói: “Nếu đoạn được một pháp. Ta ấn chứng cho chứng được A-na-hàm”. Một pháp đó là xan tham. Đúng thật nên phải nói là đoạn hết năm hạ phần kiết thời chứng được A-na-hàm. Thế sao đây nói chỉ đoạn một pháp? Vì người ấy xan tham nhiều hơn, các kiết sử khác đều từ nơi tham sanh ra, cho nên xan tham hết thì các kiết sử cũng đoạn. Giác và quán cũng như vậy. Hành giả biết các giác quán ấy, tùy là thiện pháp nhưng nó làm nhiễu loạn định tâm. Vì tâm muốn lìa nên mắng giác quán ấy. Nghĩ rằng: “Giác quán nhiễu động thiền tâm, ví như nước trong, sóng nổi dậy thời không trông thấy gì. Lại như người mỏi mệt được nghỉ muốn ngủ, người bên cạnh kêu gọi thời rất não loạn. Khi nhiếp tâm nội định bị giác quán làm lay động cũng như vậy. Các thứ nhân duyên như vậy, mắng trách giác quán, giác quán dứt, bên trong thanh tịnh, cột tâm một chỗ, không giác không quán, định sanh hỷ lạc, vào nhị thiền. Đã được nhị thiền thời được sự hỷ lạc vô tỷ chưa từng được của trong nhị thiền.

    Giác quán diệt là biết tội lỗi của giác quán nên diệt; bên trong thanh tịnh là vào sâu thiền định, tin rằng xả giác quán của Sơ thiền thời sự lợi ích trọng đại, sự mất rất ít, sự được rất nhiều. Buộc tâm vào một duyên, nên gọi là bên trong thanh tịnh. Hành giả quán tội lỗi của hỷ cũng như giác quán, tùy chỗ có hỷ, hễ nhiều hỷ là nhiều ưu, vì cớ sao? Như người nghèo được của báu hoan hỷ vô lượng, một mai bị mất thì ưu cũng sâu, hỷ liền chuyển thành ưu, cho nên, nên xả. Lìa hỷ ấy nên hành xa niệm trí, thọ thân lạc, lạc ấy Thánh nhân có thể được có thể xả, nhất tâm ở nơi lạc, vào đệ Tam thiền.

    Xả là xả hỷ tâm không còn hối tiếc. Niệm trí là đã được cái vui Tam thiền không làm cho sanh hoạn nạn đối với lạc. Thọ thân lạc là cái vui Tam thiền lan khắp toàn thân đều lãnh thọ. Thánh nhân có thể được xả là, cái vui ấy là nhất của thế gian hay làm phát sanh tâm đắm trước, kẻ phàm phu ít ai xả được. Do vậy nên Phật nói: “Quả báo của sự thực hành lòng từ là thứ nhất của trong Biến-tịnh-địa (Biến-tịnh-thiên). Hành giả quán xét cái lỗi của lạc cũng như cái lỗi của hỷ, biết chỗ tâm bất động là tối đệ nhất, chỗ có lay động thời là có khổ. Hành giả vì cái vui đệ Tam thiền lay động nên cầu chỗ bất động. Vì dứt khổ lạc trước nên dứt ưu hỷ, không khổ không vui, xả niệm thanh tịnh, vào đệ Tứ thiền.



    Bọt vỡ tan rồi!, Mộng dở dang ...

  8. #288
    Ban Điều Hành Avatar của hoatihon
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.150
    Thanks
    1.129
    Thanked 1.675 Times in 683 Posts
    ĐẠI TRÍ ĐỘ LUẬN
    Tập 1 _ Cuốn 17 _
    __________________________________________________ ______________________________________


    Trong đệ Tứ thiền ấy, không khổ không vui, chỉ có trí tuệ bất động, vì vậy nên nói đệ Tứ thiền là xả niệm thanh tịnh. Ở đệ Tam thiền có cái vui làm lay động nên nói là khổ, cho nên trong đệ Tứ thiền nói có cái vui dứt khổ.

    Như Phật nói: “Qua khỏi hết thảy sắc tướng, không tưởng niệm biệt tướng, diệt hữu đối tướng vào Vô biên hư không xứ”.

    Hành giả nghĩ rằng: “Nếu không sắc thời không có cái khổ đói khát, lạnh nóng, thân sắc ấy thô trọng tệ ác, hư dối không thật, do nhân duyên đời trước hoà hợp được thân quả báo này, là chỗ ở của các khổ não, làm sao thoát khỏi được thân nạn này? Nên quán thân này trong thân trống không, thường quán thân không, như cái lồng, như nồi đất, thường niệm nhớ không bỏ thời được qua khỏi sắc, không còn thấy thân. Giống như nội không, ngoại không cũng vậy. Bấy giờ có thể quán vô lượng vô biên hư không. Được quán ấy rồi không khổ không lạc, tâm ấy càng tăng, như chim nhốt trong bình, bình vỡ được bay ra; ấy gọi là Định không xứ.

    Không ấy vô biên vô lượng, lấy thức duyên theo, duyên nhiều thời tán loạn, có thể phá định. Hành giả quán hư không, duyên thọ, tưởng, hành, thức như bệnh, như ung, như ghẻ, như gai nhọn, vô thường, khổ, không, vô ngã, giả dối, hòa hợp thời có, chẳng phải thật có. Niệm như vậy xong xả tâm duyên hư không mà chỉ duyên thức.

    Thế nào mà duyên? Thức hiện tiền duyên đến vô lượng vô biên thức quá khứ, vị lai. Thức ấy vô lượng vô biên như hư không vô lượng vô biên; ấy gọi là Định thức xứ.

    Thức ấy vô lượng vô biên, lấy thức duyên theo, thức nhiều thời tán loạn, có thể phá định. Hành giả quán duyên thức, thọ tưởng hành thức như bệnh, như ung, như ghẻ, như gai nhọn, vô thường, khổ, không, vô ngã, giả dối hòa hợp mà có, chẳng phải thật có. Như vậy quán rồi thời phá thức tướng, ấy là mắng trách thức xứ, tán thán vô sở hữu xứ, phá các thức tướng, cột tâm ở trong vô sở hữu xứ, ấy gọi là Định vô sở hữu xứ.

    Vô sở hữu xứ duyên thọ, tưởng, hành, thức như bệnh, như ung, như ghẻ, như gai nhọn, vô thường, khổ, không, vô ngã, giả dối hòa hợp mà có, chẳng phải thật có. Như vậy, tư duy vô tưởng xứ như ung, hữu tướng xứ như bệnh, như ung, như ghẻ, như gai nhọn, diệu xứ đệ nhất là Phi-hữu-tưởng-phi-vô-tưởng-xứ.

    Hỏi: Phi-hữu-tưởng-phi-vô-tưởng-xứ có thọ, tưởng, hành, thức tại sao nói Phi-hữu-tưởng-phi-vô-tưởng?

    Đáp: Trong ấy có tưởng, song vi tế khó biết, nên gọi là Phi-hữu-tưởng, song có tưởng nên gọi là Phi-vô-tưởng. Tâm phàm phu cho ở đó là được thật tướng các pháp, ấy là Niết-bàn, còn trong Phật pháp tuy biết ở đó có tưởng, song nhân vì tên gọi cũ của nó, nên gọi là Phi-hữu-tưởng-phi-vô-tưởng.

    Hỏi: Thế nào là Vô tưởng?

    Đáp: Vô tưởng có ba là vô tưởng định, diệït thọ tưởng định và vô tưởng thiên. Người phàm phu muốn diệït tâm để vào vô tưởng định, còn đệ tử Phật muốn diệt tâm để vào Diệt thọ tưởng định.

    Các thiền định ấy có hai thứ, hoặc hữu lậu hoặc vô lậu. Hữu lậu là sở hành của phàm phu, như trước đã nói. Vô lậu là mười sáu thánh hành. Nếu là hữu lậu đạo thì nương thượng địa mà lìa cái dục của hạ địa. Nếu vô lậu đạo thì lìa cả cái dục của tự địa và thượng địa. Vì vậy phàm phu ở Hữu đỉnh xứ không được ly dục, vì không còn có thượng địa để nương. Nếu đệ tử Phật muốn lìa cái dục của dục giới. Phiền não của Dục giới thuộc loại tư duy đoạn có chín bậc thượng, trung, hạ, là thượng thượng, thượng trung, thượng hạ, trung thượng, trung trung, trung hạ, hạ thượng, hạ trung, hạ hạ. Để đoạn chín bậc ấy, đệ tử Phật hoặc nương hữu lậu đạo, cầu được Sơ thiền. Bấy giờ ở trong chín vô ngại đạo (chín vô gián đạo), tám giải thoát đạo, của vị đáo địa, hiện tại tu hữu lậu đạo, vị lai tu hữu lậu vô lậu đạo. Trong giải thoát đạo thứ chín ở vị đáo địa, hiện tại tu hữu lậu đạo, vị lai tu vị đáo địa hữu lậu, vô lậu đạo và hữu lậu của biên địa Sơ thiền. Nếu vô lậu đạo muốn được Sơ thiền cũng như vậy. Nếu nương hữu lậu đạo, lìa cái dục của Sơ thiền, nơi biên địa của đệ Nhị thiền, trong chín vô ngại đạo, tám giải thoát đạo, hiện tại tu Nhị thiền biên địa hữu lậu, vị lai tu Nhị thiền biên địa hữu lậu đạo, cũng tu Sơ thiền vô lậu và quyến thuộc. Trong giải thoát đạo thứ chín, nơi biên địa của đệ Nhị thiền, hiện tại tu Nhị thiền biên địa hữu lậu đạo, vị lai tu Nhị thiền biên địa, Sơ thiền vô lậu và quyến thuộc, Nhị thiền tịnh vô lậu. Nếu vô lậu đạo, lìa cái dục của Sơ thiền trong chín vô ngại đạo, tám giải thoát đạo, hiện tại tu vô lậu đạo nơi tự địa, vị lai tu Sơ thiền và quyến thuộc hữu lậu vô lậu đạo. Trong giải thoát đạo thứ chín, hiện tại tu vô lậu đạo nơi tự địa, vị lai tu Sơ thiền và quyến thuộc hữu lậu vô lậu đạo, và tu Nhị thiền tịnh vô lậu, cho đến khi Vô sở hữu xứ lìa dục cũng như vậy. Khi ở Phi-hữu-tưởng-phi-vô-tưởng lìa dục, thì trong chín vô ngại đạo, tám giải thoát đạo chỉ tu hết thảy vô lậu đạo. Trong giải thoát đạo thứ chín, tu thiện căn của tam giới và vô lậu đạo, trừ vô tâm định.



    Bọt vỡ tan rồi!, Mộng dở dang ...

  9. #289
    Ban Điều Hành Avatar của hoatihon
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.150
    Thanks
    1.129
    Thanked 1.675 Times in 683 Posts
    ĐẠI TRÍ ĐỘ LUẬN
    Tập 1 _ Cuốn 17 _
    __________________________________________________ ______________________________________


    Tu có hai thứ: 1- Đắc tu; 2- Hành tu. Đắc tu là trứơc vốn không được mà nay được , đời vị lai tu việc mình cũng tu việc khác. Hành tu là đã từng tu, trong hiện tại tu, vị lai cũng tu, không tu việc khác. Như vậy là lối tu trong các thứ thiền định.

    Lại nữa, tướng của thiền định lược nói có hai mươi ba thứ, đó là tám vị thiền, tám tịnh thiền, bảy vô lậu thiền.

    Lại có sáu nhân: Tương ưng nhân, cọng nhân, tương tợ nhân, biến nhân, báo nhân, danh nhân, mỗi mỗi đều vô lậu.

    Bảy vô lậu nhân là tương tợ vô lậu, trong tự địa tăng thêm vô lậu tương ưng và nhân cọng hữu. Sơ vị định sơ vị định nhân, cho đến hậu vị định hậu vị định nhân. Tịnh cũng như vậy.

    Bốn duyên là nhân duyên, thứ đệ duyên, duyên duyên, tầng thượng duyên. Nhân duyên như trên đã nói.

    Sơ thiền vô lậu định, thứ lớp sanh sáu định: 1- Sơ thiền tịnh, 2- Vô lậu, 3- Nhị thiền tịnh, 4- Vô lậu, 5- Tam thiền tịnh, 6- Vô lậu.

    Nhị thiền vô lậu định thứ lớp sanh tám định: 1- Tự địa tịnh, 2- Vô lậu, 3- Sơ thiền tịnh, 4- Vô lậu, 5- Tam thiền tịnh, 6- Vô lậu, 7- Tứ thiền tịnh, 8- Vô lậu.

    Tam vô lậu định thứ lớp sanh mười định là ở Tự địa có hai, ở Hạ địa có bốn, ở Thượng địa có bốn. Đệ tứ thiền và Không xứ cũng thứ lớp sanh mười định như vậy.

    Thức xứ vô lậu định, thứ lớp sanh chín định là ở Tự địa có hai, ở Hạ địa có bốn, ở Thượng địa có ba.

    Vô sở hữu xứ vô lậu định, thứ lớp sanh bảy định là ở Tự địa có hai, ở Hạ địa có bốn, ở Thượng địa có một.

    Phi-hữu-tưởng-phi-vô-tưởng-xứ thứ lớp sanh sáu tâm là ở Tự địa có hai, ở Hạ địa có bốn. Các tịnh địa khác cũng như vậy. Lại đều lợi ích tự địa vị.

    Sơ thiền vị thứ lớp có hai là vị và tịnh, cho đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ vị cũng như vậy.

    Tịnh và vô lậu thiền, hết thảy xứ đều duyên. Vị thiền duyên vị trong tự địa, cũng duyên tịnh, ái, vì không có vô lậu duyên, nên không duyên vô lậu.

    Tịnh và vô lậu căn bản vô sắc định, không duyên hữu lậu của hạ địa. Danh nhân và Tăng thượng duyên thông hết thảy định.

    Bốn vô lượng tâm, tám bội xả, tám thắng xứ, và tám nhất thiết xứ đều duyên dục giới.

    Năm thần thông thì duyên dục giới, sắc giới, ngoài ra đều tùy theo chỗ thích hợp mà duyên.

    Diệt thọ tưởng định thì không duyên gì. Trong Tứ thiền có luyện pháp, lấy vô lậu luyện hữu lậu, nên được Tứ thiền tâm tự tại. Lấy vô lậu đệ Tứ thiền luyện hữu lậu đệ Tứ thiền, vậy sau đệ Tam, đệ Nhị, đệ Nhất thiền đều lấy tự địa vô lậu luyện tự địa hữu lậu.



    Bọt vỡ tan rồi!, Mộng dở dang ...

  10. #290
    Ban Điều Hành Avatar của hoatihon
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.150
    Thanks
    1.129
    Thanked 1.675 Times in 683 Posts
    ĐẠI TRÍ ĐỘ LUẬN
    Tập 1 _ Cuốn 17 _
    __________________________________________________ ______________________________________


    Hỏi: Sao gọi là luyện thiền?

    Đáp: Các thánh nhân thích vô lậu định, không thích hữu lậu. Khi ly dục, tịnh hữu lậu không thích mà tự được. Nay muốn trừ cấu uế đó nên lấy vô lậu để luyện nó. Ví như luyện vàng bỏ cấu bẩn, vô lậu luyện hữu lậu cũng như vậy. Từ vô lậu thiền khởi dậy, nhập vào tịnh thiền, luôn luôn như vậy gọi là luyện. Lại nữa, trong các thiền có đảnh thiền. Sao gọi là đảnh? Có hai loại A-la-hán là hoại pháp và bất hoại pháp. Bất hoại pháp A-la-hán được tự tại đối với hết thảy thiền định sâu xa, có thể phát khởi đỉnh thiền. Được đỉnh thiền ấy, có thể chuyển sự sống lâu thành giàu sang, chuyển sự giàu sang thành sống lâu.

    Lại có nguyện trí, tứ biện, Vô tránh Tam muội.

    Nguyện trí là nguyện muốn biết việc ba đời, tùy sở nguyện thời đều biết được. Nguyện trí này nhiếp vào hai nơi là dục giới và đệ Tứ thiền.

    Tứ biện là pháp biện, từ biện thì nhiếp vào hai nơi là dục giới và Sơ thiền; nghĩa biện và lạc thuyết thì nhiếp vào chín nơi là dục giới, bốn thiền, bốn vô sắc định.

    Vô tránh Tam muội là làm cho tâm người khác không khởi tranh cãi, nó nhiếp vào năm nơi là dục giới và bốn thiền.

    Hỏi: Được các thiền còn có pháp khác nữa ư?

    Đáp: Vì định sanh cũng được, thối cũng được. Tịnh thiền thì khi sanh được, khi ly dục được, khi vô lậu ly dục được, khi thối được.

    Chín địa vô lậu định là bốn thiền, ba vô sắc định, vị đáo địa thiền, trung gian thiền, có thể đoạn kiết sử. Ở vị đáo địa thiền, trung gian thiền có xả căn tương ưng. Nếu người thành tựu thiền, tâm biến hoá của hạ địa cũng thành tựu. Như sơ thiền thành tựu tâm biến hóa, một là Sơ thiền, hai là Dục giới, Nhị thiền có ba, Tam thiền có bốn, Tứ thiền có năm, nếu trong Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền khi muốn nghe, thấy, xúc, chạm đều dùng thức của trời Phạm thế, khi thức diệt thì ngưng.

    Bốn vô lượng tâm, năm thần thông, tám bội xả, tám thắng xử, mười nhất thiết nhập, chín thứ đệ định, chín tưởng, mười tưởng, ba tam muội, ba giải thoát môn, ba vô lậu căn, ba mươi bảy phẩm trợ đạo. Các công đức như vậy, đều từ trong thiền Ba-la-mật phát sanh. Trong đó nên rộng nói.

    Hỏi: Nên phải nói là Thiền Ba-la-mật, cớ sao chỉ nói thiền?

    Đáp: Thiền là gốc của Ba-la-mật. Được thiền ấy rồi thương xót chúng sanh, trong nội tâm có các diệu lạc của thiền định nhưng không biết cầu, nên mới cầu cái vui ở trong pháp khổ bất tịnh bên ngoài. Quán như vậy rồi sanh tâm đại bi, lập thệ nguyện rộng lớn” “Ta sẽ làm cho chúng sanh đều được cái vui bên trong thiền định, lìa cái vui bất tịnh. Nương cái vui thiền định, rồi tiếp đến làm cho được cái vui của Phật đạo”. Bấy giờ thiền được gọi là Ba-la-mật.

    Lại nữa, ở trong thiền ấy, không vì lãnh thọ thiền vị, không vì cầu quả báo, không vì tùy báo sanh ra, mà vì điều phục tâm nên nhập thiền, dùng trí tuệ phương tiện sanh trở lại dục giới, độ thoát hết thảy chúng sanh, bấy giờ thiền được gọi là Ba-la-mật.

    Lại nữa, Bồ-tát nhập thiền định sâu xa, hết thảy trời người không thể biết được tâm Bồ-tát nương dựa đâu, duyên đâu, trong các pháp thấy nghe hay biết, tâm không lay động, như trong Kinh Tỳ-ma-la-cật (Duy-ma-cật) vì Xá-lợi-phất mà nói pháp an tọa, không nương dựa thân, không nương dựa tâm, không nương dựa ba cõi. Ở trong ba cõi không tìm thấy thân tâm, như vậy là an tọa.

    Lại nữa, nếu người nghe nói cái vui thiền định hơn cái vui cõi người, cõi trời, bèn bỏ cái vui ngũ dục mà cầu thiền định. Ấy là tự cầu làm lợi mình, không đủ cho là lạ. Bồ-tát thời không như thế, chỉ vì đem vui cho chúng sanh nên làm cho tâm từ bi thanh tịnh, không bỏ chúng sanh.

    Bồ-tát thiền, trong thiền phát tâm đại bi, thiền có cái vui cực diệu bên trong, nhưng chúng sanh thì bỏ đi mà cầu cái vui bên ngoài. Ví như người mù giàu lớn, có nhiều kho báu mà vì không biết, không thấy mà phải đi xin. Người trí thương xót người ấy có vật qúy mà không thể thấy biết, nên phải đi xin người khác. Chúng sanh cũng như vậy, trong tâm có nhiều cái vui thiền định mà không biết phát huy, trở lại cầu cái vui bên ngoài.

    Lại nữa, Bồ-tát biết thật tướng các pháp nên vào thiền, trong lòng an ổn không đắm thiền vị, các ngoại đạo khác tuy vào thiền định, mà tâm không an ổn, không biết thật tướng các pháp nên đắm trước thiền vị.



    Bọt vỡ tan rồi!, Mộng dở dang ...

Thông tin chủ đề

Users Browsing this Thread

Hiện có 3 người đọc bài này. (0 thành viên và 3 khách)

Quyền viết bài

  • Bạn không thể gửi chủ đề mới
  • Bạn không thể gửi trả lời
  • Bạn không thể gửi file đính kèm
  • Bạn không thể sửa bài viết của mình
  •