ĐẠI TRÍ ĐỘ LUẬN Tập 1 _ Cuốn 2 _ Chương 3 _ GIẢI THÍCH: BÀ-GIÀ-BÀ
__________________________________________________ ______________________________________
Khi ấy vua Ba-tư-nặc, Trưởng giả Tu-đạt-đa v.v… đến chỗ Xá-lợi-phất và nói với Xá-lợi-phất: "Phật không vì vô sự mà nhận lời thỉnh, Đại đức Xá-lợi-phất cũng không nhận lời thỉnh, thời kẻ cư sĩ áo trắng chúng tôi làm sao có được lòng tin lớn lao thanh tịnh". Xá-lợi-phất nói: "Phật, Đại sư của tôi nói: Xá-lợi-phất ăn đồ bất tịnh, nay không được nhận lời người thỉnh".
Lúc ấy vua Ba-tư-nặc v.v… đi đến chỗ Phật, bạch Phật: " Phật không thường nhận lời người thỉnh, Tôn giả Xá-lợi-phất cũng không nhận lời thỉnh, thời chúng con làm sao có được lòng tin lớn? Mong Phật sắc Tôn giả Xá-lợi-phất trở lại nhận lời người thỉnh". Phật nói "Thầy ấy tâm cứng cỏi, không thể lay chuyển".
Bấy giờ, Phật dẫn Nhân duyên Bản sanh: "Xưa có một Quốc vương bị Rắn độc cắn, vua sắp muốn chết, gọi các lương y đến trị độc Rắn. Bấy giờ các lương y nói: "Phải làm cho rắn hút lại độc khí mới hết được".
Khi ấy các lương y đều đọc chú thuật, con Rắn đã cắn vua liền đến chỗ vua, các lương y chất củi và lửa lên, bảo con Rắn: "Ngươi phải hút lại chất độc của ngươi, nếu không sẽ phải nhảy vào lửa". Rắn độc suy nghĩ: "Ta đã nhả chất độc, làm sao hút lại, thà phải chịu chết!" Tư duy định tâm, liền nhảy vào lửa. Rắn độc lúc ấy chính là Xá-lợi-phất, đời đời tâm cứng cỏi không thể lay động".
Lại nữa, Trưởng lão Tất-lăng Già-bà-ta thường bị đau mắt. Ông ấy khi đi khất thực thường đi ngang qua sông Hằng. Khi đến bên dòng sông, ông gảy móng tay mà nói: "Tiểu tỳ, dừng lại đừng cho nước chảy". Nước liền rẽ làm hai, ông ấy qua được, rồi đi khất thực. Thần sông Hằng đến chỗ Phật, bạch Phật: "Đệ tử của Phật là Tất-lăng Già-bà-ta thường mắng tôi: "Tiểu tỳ, dừng lại đừng cho nước chảy". Phật bảo Tất-lăng Già-bà-ta sám hối thần sông Hằng. Tất-lăng Già-bà-ta tức thì chấp tay mà nói với thần sông Hằng: "Tiểu tỳ chớ giận, nay ta tạ lỗi nhà ngươi". Khi ấy đại chúng cười nói: "Tại sao tạ lỗi mà lại mắng nữa?" Phật nói với thần sông Hằng: "Ông có thấy Tất-lăng Già-bà-ta chấp tay tạ lỗi chăng? Tạ lỗi là không có lòng kiêu mạn mà nói lời ấy, nên biết không phải là ác. Chẳng qua ông ấy năm trăm đời lại đây, thường sanh trong nhà Bà-la-môn, thường tự kiêu, cho mình là cao qúy, khinh rẻ người ác, tập khí xưa nay như vậy, nên miệng nói mà tâm không kiêu mạn".
Như vậy, các A-la-hán tuy dứt kiết sử mà còn có tập khí tàn dư, còn như chư Phật Thế Tôn, hoặc có người lấy dao cắt một cánh tay, cũng như con mắt bên phải và con mắt bên trái, tâm Ngài không thương ghét; vì Ngài vĩnh viễn không còn tập khí tàn dư.
Con gái Bà-la-môn tên là Chiên-xà (Cinca) độn cái bát giả mang bầu đến mắng Phật ngay ở giữa đại chúng rằng: "Ông làm cho tôi có thai sao không chịu lo cơm áo cho tôi. Ông là người không biết xấu, mê hoặc thiên hạ".
Bấy giờ năm trăm thầy Bà-la-môn giáo giơ tay mà xướng lên: "Phải, phải, chúng ta biết việc ấy". Lúc ấy Phật không đổi sắc, cũng không thẹn thùng. Việc ấy tức thời bị lột trần ra, đất liền động mạnh, chư Thiên cúng dường, rải các danh hoa, tán thán đức của Phật, Phật cũng không có sắc mừng.
Lại nữa, Phật phải ăn thóc của ngựa mà cũng không buồn bực. Thiên vương dâng đồ ăn đủ cả trăm vị, Phật cũng không lấy làm mừng, nhất tâm không hai.
Như thế đó, đủ các thứ ẩm thực, y phục, ngọa cụ, khen, chê, khinh bỉ, cung kính, tâm Ngài vẫn không đổi khác. Cũng như vàng thật dù đốt, rèn, đập, mài vẫn không thêm bớt. Vì vậy, cho nên, A-la-hán tuy đoạn kiết sử, đắc đạo nhưng vẫn còn tàn khí, không được gọi là Bà-già-bà.