DIỄN ĐÀN PHẬT PHÁP THỰC HÀNH - Powered by vBulletin




Cùng nhau tu học Phật pháp - Hành trình Chân lý !            Hướng chúng sinh đi, hướng chúng sinh đi, để làm Phật sự không đối đãi.


Tánh Chúng sinh cùng Phật Quốc chỉ một,
Tướng Bồ Đề hóa Liên hoa muôn vạn.

Trang 4/35 ĐầuĐầu ... 2345614 ... CuốiCuối
Hiện kết quả từ 31 tới 40 của 341
  1. #31
    Ban Điều Hành Avatar của hoatihon
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.150
    Thanks
    1.129
    Thanked 1.675 Times in 683 Posts
    ĐẠI TRÍ ĐỘ LUẬN
    Tập 1 _ Cuốn 1 _ Phẩm Tựa Đầu _ Chương 2
    __________________________________________________ ______________________________________


    Đại Ca-diếp nói với A-nan: "Từ Kinh Chuyển Pháp luân đến Kinh Đại Bát Niết-bàn, tập thành bốn bộ A-hàm: Tăng nhất A-hàm, Trung A-hàm, Trường A-hàm, Tương Ưng A-hàm. Đó gọi là Pháp tạng Tu-đố-lộ (Sutrapitaka).

    Các A-la-hán lại hỏi: "Ai có thể hiểu rõ mà tập thành Pháp tạng Tỳ-ni?" Đều nói: "Trưởng lão Ưu-ba-ly, là người trì Luật hơn cả trong năm trăm A-la-hán, chúng ta nay cung thỉnh". Liền thỉnh: "Mời đứng dậy đi đến ngồi tòa Sư tử mà thuật lại: "Phật ở chỗ nào bắt đầu thuyết Tỳ-ni kiết giới?"

    Ưu-ba-ly vâng lời Tăng dậy, ngồi trên tòa Sư tử nói: "Như vậy tôi nghe, một thời Phật ở thành Tỳ-xá-ly, bấy giờ con của Trưởng-giả Tu-lân-na Ca-nan-đà, bắt đầu làm chuyện dâm dục. Do nhân duyên ấy, Phật kết thành đại tội thứ nhất. Hai trăm năm mươi giới làm thành ba bộ, bảy pháp, tám pháp, Tỳ-kheo-ni, Tỳ-ni, Tăng-nhất, Ưu-ba-ly vấn, Tạp bộ, Thiện bộ. Như vậy mười tám bộ làm thành tạng Tỳ-ni"

    Các A-la-hán lại suy nghĩ: "Ai có thể hiểu rõ mà kết tập tạng A-tỳ-đàm?" Nghĩ rằng: " Trưởng lão A-nan, trong năm trăm A-la-hán, là người bậc nhất hiểu nghĩa Tu-đố-lộ, chúng ta nay cung thỉnh". Liền thỉnh rằng: "Xin đứng dậy đi đến ngồi tòa Sư tử, thuật lại Phật ở chỗ nào đầu tiên thuyết về A-tỳ-đàm?"

    A-nan vâng lời Tăng dậy, đến ngồi trên tòa Sư tử nói: "Như vậy tôi nghe, một thời Phật ở thành Xá-bà-đề, bấy giờ Phật bảo các Tỳ-kheo, những người có năm điều sợ, năm tội, năm oán, không trừ không diệt, do nhân duyên ấy, thân tâm trong đời này chịu vô lượng khổ, đời sau lại đọa vào đường ác. Những người không có năm điều sợ, năm tội, năm oán, do nhân duyên ấy, thân tâm trong đời này thọ vui, đời sau lại sanh vào chỗ vui trên Trời. Những gì là năm điều sợ nên xa lìa? Một là sát sanh, hai là trộm, ba là tà dâm, bốn là nói dối, năm là uống rượu". Những điều như thế gọi là tạng A-tỳ-đàm.

    Kiết tập ba Pháp tạng xong, chư Thiên, Quỷ Thần, các Rồng, Thiên nữ mưa hoa hương Trời, tràng phan, áo Trời đủ các thứ cúng dường, để cúng dường Pháp, và thuyết kệ:

    "Vì thương xót thế gian.

    Kết tập ba Pháp tạng.

    Đấng đủ Mười trí lực.

    Trí, đèn soi vô minh".



    Bọt vỡ tan rồi!, Mộng dở dang ...

  2. #32
    Ban Điều Hành Avatar của hoatihon
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.150
    Thanks
    1.129
    Thanked 1.675 Times in 683 Posts
    ĐẠI TRÍ ĐỘ LUẬN
    Tập 1 _ Cuốn 1 _ Phẩm Tựa Đầu _ Chương 2
    __________________________________________________ ______________________________________


    Hỏi: Bát-kiền-độ A-tỳ-đàm (Astagran - Àbhidharma), Lục phần (Asatpà - Àbhidharma) từ đâu ra?

    Đáp: Lúc Phật còn ở đời, pháp không có sai trái. Sau khi Phật diệt độ, kết tập pháp thứ nhất, cũng như khi còn Phật. Một trăm năm sau khi Phật diệt độ, vua A-du-ka (Asoka) mở đại hội Ban-xà Vu-sắc (Pàncavarsa - parisad), các đại pháp sư luận nghị khác nhau nên có danh tự các bộ khác nhau. Từ đó về sau, lần lượt đến khi có đạo nhân Bà-la-môn tánh là Ca-chiên-diên, trí tuệ, lợi căn, đọc hết Kinh sách tam tạng trong ngoài, muốn giải thích Phật pháp nên viết luận Phát-trí (Jnànaprasthàmàstagrantha) gồm tám Kiền-độ, phẩm đầu là thế gian Đệ nhất pháp. Về sau các đệ tử, vì người sau không thể hiểu hết tám Kiền-độ, nên viết ra bộ luận Tỳ-bà-sa. Có người nói: "Trong sáu phần A-tỳ-đàm, phần thứ ba là Phân biệt thế xứ, do Mục-kiền-liên soạn. Trong sáu phần, phần đầu gồm tám phẩm, bốn phẩm do Bà-tu-mật Bồ-tát soạn, bốn phẩm do A-la-hán nước Kế-tân (Kasmir) soạn; còn năm phẩm kia do các luận nghị sư soạn".

    Lại có người nói: "Lúc Phật tạ thế, Xá-lợi-phất đã giải lời Phật nên soạn A-tỳ-đàm. Về sau, đạo nhân Độc tử tụng đọc, cho đến nay gọi là Xá-lợi-phất A-tỳ-đàm. Và Đại Ca-chiên-diên lúc Phật tạ thế, vì giải lời Phật mà soạn Tỳ-lặc (Petaka - Hiệp tạng) cho đến nay lưu hành ở Nam Thiên Trúc.

    Các luận nghị sư đều giải rộng lời Phật, như nói năm giới. Trong năm giới ấy, mấy giới thuộc có sắc, mấy giới thuộc vô sắc. Mấy giới thấy được, mấy giới không thấy được? Mấy giới là có đối ngại, mấy giới là không đối ngại? Mấy giới là hữu lậu, mấy giới là vô lậu? Mấy giới là hữu vi, mấy giới là vô vi? Mấy giới là có quả báo, mấy giới là không quả báo? Mấy giới là thiện, mấy giới là bất thiện? Mấy giới là hữu ký, mấy giới là vô ký?

    Lại có bảy sử là dục nhiễm sử, sân nhuế sử, Hữu ái sử, kiêu mạn sử, vô minh sử, kiến sử, nghi sử. Trong bảy sử ấy, mấy sử hệ thuộc Dục giới, mấy sử hệ thuộc Sắc giới, mấy sử hệ thuộc Vô sắc giới? Mấy sử do kiến đế đoạn, mấy sử do tư duy đoạn. Mấy sử do thấy Khổ đế đoạn, mấy sử do thấy Tập đế đoạn, mấy sử do thấy Diệt đế đoạn, mấy sử do thấy Đạo đế đoạn? Mấy sử biến khắp, mấy sử không biến khắp?

    Lại có mười trí là Pháp trí, Tỷ trí, Thế trí, Tha tâm trí, Khổ trí, Tập trí, Diệt trí, Đạo trí, Tận trí, Vô sanh trí. Mười trí ấy, mấy thuộc Hữu lậu, mấy thuộc vô lậu? Mấy thuộc Hữu vi, mấy thuộc vô vi? Mấy trí duyên pháp Hữu lậu, mấy trí duyên pháp vô lậu? Mấy trí duyên pháp Hữu vi, mấy trí duyên pháp vô vi? Mấy trí duyên Dục giới, mấy trí duyên Sắc giới, mấy trí duyên Vô sắc giới? Mấy không hệ duyên, mấy trí tu ở trong vô ngại đạo, mấy trí tu ở trong giải thoát đạo? Khi được bốn quả, mấy trí được, mấy trí mất? Phân biệt hết thảy pháp như vậy, cũng gọi là A-tỳ-đàm; vì A-tỳ-đàm có ba loại: 1- A-tỳ-đàmThân và Nghĩa, lược nói có ba mươi hai vạn lời. 2- Sáu phần, lược nói có nói ba mươi hai vạn lời. 3- Trí lặc, lược nói có ba mươi hai vạn lời, ấy là A-tỳ-đàm.

    Lược nói Tổng nghĩa "Như vậy, tôi nghe" đã xong.


    Bọt vỡ tan rồi!, Mộng dở dang ...

  3. #33
    Ban Điều Hành Avatar của hoatihon
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.150
    Thanks
    1.129
    Thanked 1.675 Times in 683 Posts
    ĐẠI TRÍ ĐỘ LUẬN
    Tập 1 _ Cuốn 2 _ Chương 3 _ GIẢI THÍCH: BÀ-GIÀ-BÀ
    __________________________________________________ ______________________________________


    Cuốn 2 _ CHƯƠNG 3

    GIẢI THÍCH: BÀ-GIÀ-BÀ (Bhàgavat).



    LUẬN: Sao gọi là Bà-già-bà? Bà-già (Bhàga) là đức; Bà (vat) là có. Vậy Bà-già-bà là có đức.

    Lại nữa, Bà-già là phân biệt, Bà là xảo. Khéo phân biệt tướng chung tướng riêng của các pháp, nên gọi là Bà-già-bà.

    Lại nữa, Bà-già là thanh danh, Bà là có. Vậy là có thanh danh. Thanh danh không ai có như Phật. Chuyển luân Thánh vương, Đế-thích, Phạm-thiên, Hộ-thế, không có ai bằng Phật, huống những người phàm khác, vì cớ sao? Vì Chuyển luân Thánh vương còn dính mắc với kiết sử, mà đức Phật thì đã xa lìa kiết sử. Chuyển luân Thánh vương còn chìm trong bùn sanh già bệnh chết; Phật đã qua khỏi. Chuyển luân Thánh vương còn làm tôi tớ cho ân ái; Phật đã xa lìa vĩnh viễn. Chuyển luân Thánh vương còn ở trong cánh đồng tai hoạn của thế gian, Phật đã xa lìa. Chuyển luân Thánh vương còn ở trong chỗ vô minh tăm tối, Phật thì ở trong chỗ sáng suốt nhất. Chuyển luân Thánh vương cùng lắm là thống lãnh bốn châu thiên hạ, Phật thì thống lãnh cả vô lượng thế giới. Chuyển luân Thánh vương tiền của tự tại, Phật thì tâm tưởng tự tại. Chuyển luân Thánh vương còn tham cầu cái vui cõi trời, còn Phật cho đến cái vui của cõi trời Hữu đỉnh cũng không tham đắm. Chuyển luân Thánh vương theo người khác cầu vui, Phật trong tâm tự vui. Vì nhân duyên ấy, Phật hơn Chuyển luân Thánh vương. Các hàng Đế-thích, Phạm-thiên, Hộ-thế cũng lại như vậy, chỉ hơn Chuyển luân Thánh vương chút ít.

    Lại nữa, Bà-già là phá, Bà là năng. Vì là người năng phá dâm, nộ, si nên gọi là Bà-già-bà.

    Hỏi: Như A-la-hán, Bích-chi-Phật cũng phá dâm, nộ, si, với Phật khác gì?

    Đáp: A-la-hán, Bích-chi-Phật tuy phá ba độc nhưng không sạch hết khí phần. Ví như hương ở trong đồ đựng hương tuy lấy đi mà hơi vẫn còn. Lại như lửa đốt cây, cỏ, củi khói bay mà than vẫn còn, vì sức lửa yếu. Phật dứt hẳn ba độc không còn thừa. Ví như lúc kiếp tận, lửa đốt núi Tu-di, tất cả đất đai tiêu hết, khói không, than không. Như Xá-lợi-phất còn tập khí sân nhuế, Nan-đà còn tập khí dâm dục. Tất-lăng-già-bà-ta còn tập khí tiêu mạn. Ví như người bị xiềng chân mới được thả ra đi không vững.

    Bấy giờ Phật từ thiền định dậy đi kinh hành. La-hầu-la đi theo, Phật hỏi La-hầu-la vì sao gầy ốm? La-hầu-la thưa kệ:

    "Nếu người ăn dầu thì có sức,

    Nấu uống sữa tươi thì sắc tốt,

    Nếu ăn mè, rau không sắc, lực.

    Đại đức Thế Tôn tự nên biết".


    Phật hỏi La-hầu-la: "Trong chúng này ai là Thượng tọa?" La-hầu-la thưa: "Hòa thượng Xá-lợi-phất". Phật nói: "Xá-lợi-phất ăn đồ bất tịnh". Bấy giờ Xá-lợi-phất nghe nói lại lời ấy, tức thì mửa đồ ăn, và tự thề: "Từ nay không còn nhận lời người thỉnh".


    Bọt vỡ tan rồi!, Mộng dở dang ...

  4. #34
    Ban Điều Hành Avatar của hoatihon
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.150
    Thanks
    1.129
    Thanked 1.675 Times in 683 Posts
    ĐẠI TRÍ ĐỘ LUẬN
    Tập 1 _ Cuốn 2 _ Chương 3 _ GIẢI THÍCH: BÀ-GIÀ-BÀ
    __________________________________________________ ______________________________________


    Khi ấy vua Ba-tư-nặc, Trưởng giả Tu-đạt-đa v.v… đến chỗ Xá-lợi-phất và nói với Xá-lợi-phất: "Phật không vì vô sự mà nhận lời thỉnh, Đại đức Xá-lợi-phất cũng không nhận lời thỉnh, thời kẻ cư sĩ áo trắng chúng tôi làm sao có được lòng tin lớn lao thanh tịnh". Xá-lợi-phất nói: "Phật, Đại sư của tôi nói: Xá-lợi-phất ăn đồ bất tịnh, nay không được nhận lời người thỉnh".

    Lúc ấy vua Ba-tư-nặc v.v… đi đến chỗ Phật, bạch Phật: " Phật không thường nhận lời người thỉnh, Tôn giả Xá-lợi-phất cũng không nhận lời thỉnh, thời chúng con làm sao có được lòng tin lớn? Mong Phật sắc Tôn giả Xá-lợi-phất trở lại nhận lời người thỉnh". Phật nói "Thầy ấy tâm cứng cỏi, không thể lay chuyển".

    Bấy giờ, Phật dẫn Nhân duyên Bản sanh: "Xưa có một Quốc vương bị Rắn độc cắn, vua sắp muốn chết, gọi các lương y đến trị độc Rắn. Bấy giờ các lương y nói: "Phải làm cho rắn hút lại độc khí mới hết được".

    Khi ấy các lương y đều đọc chú thuật, con Rắn đã cắn vua liền đến chỗ vua, các lương y chất củi và lửa lên, bảo con Rắn: "Ngươi phải hút lại chất độc của ngươi, nếu không sẽ phải nhảy vào lửa". Rắn độc suy nghĩ: "Ta đã nhả chất độc, làm sao hút lại, thà phải chịu chết!" Tư duy định tâm, liền nhảy vào lửa. Rắn độc lúc ấy chính là Xá-lợi-phất, đời đời tâm cứng cỏi không thể lay động".

    Lại nữa, Trưởng lão Tất-lăng Già-bà-ta thường bị đau mắt. Ông ấy khi đi khất thực thường đi ngang qua sông Hằng. Khi đến bên dòng sông, ông gảy móng tay mà nói: "Tiểu tỳ, dừng lại đừng cho nước chảy". Nước liền rẽ làm hai, ông ấy qua được, rồi đi khất thực. Thần sông Hằng đến chỗ Phật, bạch Phật: "Đệ tử của Phật là Tất-lăng Già-bà-ta thường mắng tôi: "Tiểu tỳ, dừng lại đừng cho nước chảy". Phật bảo Tất-lăng Già-bà-ta sám hối thần sông Hằng. Tất-lăng Già-bà-ta tức thì chấp tay mà nói với thần sông Hằng: "Tiểu tỳ chớ giận, nay ta tạ lỗi nhà ngươi". Khi ấy đại chúng cười nói: "Tại sao tạ lỗi mà lại mắng nữa?" Phật nói với thần sông Hằng: "Ông có thấy Tất-lăng Già-bà-ta chấp tay tạ lỗi chăng? Tạ lỗi là không có lòng kiêu mạn mà nói lời ấy, nên biết không phải là ác. Chẳng qua ông ấy năm trăm đời lại đây, thường sanh trong nhà Bà-la-môn, thường tự kiêu, cho mình là cao qúy, khinh rẻ người ác, tập khí xưa nay như vậy, nên miệng nói mà tâm không kiêu mạn".

    Như vậy, các A-la-hán tuy dứt kiết sử mà còn có tập khí tàn dư, còn như chư Phật Thế Tôn, hoặc có người lấy dao cắt một cánh tay, cũng như con mắt bên phải và con mắt bên trái, tâm Ngài không thương ghét; vì Ngài vĩnh viễn không còn tập khí tàn dư.

    Con gái Bà-la-môn tên là Chiên-xà (Cinca) độn cái bát giả mang bầu đến mắng Phật ngay ở giữa đại chúng rằng: "Ông làm cho tôi có thai sao không chịu lo cơm áo cho tôi. Ông là người không biết xấu, mê hoặc thiên hạ".

    Bấy giờ năm trăm thầy Bà-la-môn giáo giơ tay mà xướng lên: "Phải, phải, chúng ta biết việc ấy". Lúc ấy Phật không đổi sắc, cũng không thẹn thùng. Việc ấy tức thời bị lột trần ra, đất liền động mạnh, chư Thiên cúng dường, rải các danh hoa, tán thán đức của Phật, Phật cũng không có sắc mừng.

    Lại nữa, Phật phải ăn thóc của ngựa mà cũng không buồn bực. Thiên vương dâng đồ ăn đủ cả trăm vị, Phật cũng không lấy làm mừng, nhất tâm không hai.

    Như thế đó, đủ các thứ ẩm thực, y phục, ngọa cụ, khen, chê, khinh bỉ, cung kính, tâm Ngài vẫn không đổi khác. Cũng như vàng thật dù đốt, rèn, đập, mài vẫn không thêm bớt. Vì vậy, cho nên, A-la-hán tuy đoạn kiết sử, đắc đạo nhưng vẫn còn tàn khí, không được gọi là Bà-già-bà.


    Bọt vỡ tan rồi!, Mộng dở dang ...

  5. #35
    Ban Điều Hành Avatar của hoatihon
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.150
    Thanks
    1.129
    Thanked 1.675 Times in 683 Posts
    ĐẠI TRÍ ĐỘ LUẬN
    Tập 1 _ Cuốn 2 _ Chương 3 _ GIẢI THÍCH: BÀ-GIÀ-BÀ
    __________________________________________________ ______________________________________


    Hỏi: Bà-già-bà chỉ có một danh hiệu ấy hay còn có danh hiệu khác?

    Đáp: Công đức của Phật vô lượng, danh hiệu cũng vô lượng. Danh hiệu ấy (Bà-già-bà) được dùng hơn cả là do nhiều người biết đến.

    * Lại có danh hiệu khác như Đa-đà A-già-đà (Tathàgata). Sao gọi là Đa-đà A-già-đà (Tathàgata - Như Lai)? Như pháp tướng mà hiểu, như pháp tướng mà giảng thuyết, như chư Phật theo con đường an ổn mà đi đến, Phật cũng như vậy đi đến, lại không còn đi đến trong đời sau nên gọi là Đa-đà A-già-đà.

    * Lại có danh hiệu A-la-ha (Arhat). Sao gọi là A-la-ha? A-la là giặc; Ha là giết. A-la-ha gọi là giết giặc, như kệ nói:

    "Phật lấy nhẫn làm áo đồng,
    Lấy tinh tấn làm giáp sắt,
    Lấy trì giới làm ngựa hay,
    Lấy thiền định làm cung tốt.
    Lấy trí tuệ làm tên nhọn.
    Ngoài thì phá quân Ma vương,
    Trong thì diệt giặc phiền não,
    Ấy gọi là A-la-ha".

    Lại nữa, A là chẳng, La-ha là sanh. A-la-ha là chẳng sanh. Ha giống Phật tâm không sanh trong thửa ruộng đời sau, vì vỏ trấu vô minh đã lột rồi.

    Lại nữa, A-la-ha là ứng thọ cúng dường. Phật đã trừ hết kiết sử, được Nhất thiết Trí tuệ, xứng đáng lãnh thọ sự cúng dường của hết thảy trời đất chúng sanh, vì thế Phật cũng gọi là A-la-ha.

    * Lại có danh hiệu Tam-miệu Tam-Phật-đà (Samyaksam-Buddha). Tại sao gọi là Tam-miệu Tam-Phật-đà? Tam-miệu là chánh, Tam là biến , Phật-đà là tri. Tam-miệu Tam-Phật-đà là Chánh biến tri đối với hết thảy pháp.

    Hỏi: Thế nào là Chánh biến tri?

    Đáp:

    "Biết Khổ đúng như khổ tướng.

    Biết Tập đúng như tập tướng.

    Biết Diệt đúng như diệt tướng.

    Biết Đạo đúng như đạo tướng".

    Đó là Tam-miệu Tam-Phật-đà.

    Lại nữa, biết tướng chơn thật của tất cả các pháp là bất hoại, bất tăng bất giảm.

    Tại sao gọi là tướng bất hoại? Con đường tâm tưởng nói năng đều đoạn diệt, quá hơn các pháp, như tướng Niết-bàn bất động. Vì vậy gọi là Tam-miệu Tam-Phật-đà.

    Lại nữa, hết thảy danh tự của mười phương thế giới, của chúng sanh trong lục đạo nhân duyên đời trước và chỗ thác sanh trong vị lai của chúng sanh, hết thảy tâm tưởng của mười phương chúng sanh, các kiết sử, các thiện căn, các đạo xuất ly, hết thảy các pháp như vậy đều biết. Ấy gọi là Tam-miệu Tam-Phật-đà.


    Bọt vỡ tan rồi!, Mộng dở dang ...

  6. #36
    Ban Điều Hành Avatar của hoatihon
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.150
    Thanks
    1.129
    Thanked 1.675 Times in 683 Posts
    ĐẠI TRÍ ĐỘ LUẬN
    Tập 1 _ Cuốn 2 _ Chương 3 _ GIẢI THÍCH: BÀ-GIÀ-BÀ
    __________________________________________________ ______________________________________


    * Lại có danh hiệu Bệ-đa Giá-la-na Tam-ban-na (Vidya-Caranasampana). Tiếng Tàu dịch là Minh hạnh túc. Sao gọi là Minh hạnh túc? Túc mạng, Thiên nhãn và Lậu tận gọi là tam minh.

    Hỏi: Thần thông và Minh khác nhau như thế nào?

    Đáp: Biết thẳng việc Túc mạng trong quá khứ gọi là Thông, biết hạnh nghiệp nhân duyên trong quá khứ gọi là Minh; biết thẳng chết chỗ này sanh chỗ kia gọi là Thông; biết hạnh nghiệp nhân duyên tập hợp không mất gọi là Minh. Dứt thẳng hết kiết sử mà không biết còn sanh lại hay không sanh lại gọi là Thông. Nếu biết lậu hoặc dứt hết không còn sanh lại, gọi là Minh. Ba minh này là sở chứng của đại A-la-hán, đại Bích-chi Phật.

    Hỏi: Nếu như vậy, A-la-hán và Bích-chi có gì khác với Phật.

    Đáp: Các vị ấy tuy được Tam minh, mà Minh không đầy đủ, còn Phật đầy đủ hết thảy nên khác.

    Hỏi: Sao là không đầy đủ, và sao là đầy đủ?

    Đáp: Tri túc mạng của A-la-hán và Bích-chi Phật biết thân mình và thân người khác cũng không thể đủ. Có vị A-la-hán biết một đời, hoặc hai đời, ba đời, mười, trăm ngàn, vạn kiếp, cho đến tám vạn kiếp, xa hơn thì không còn biết được nữa, thế nên không đầy đủ; Thiên nhãn minh biết về đời vị lai cũng như vậy. Phật ngay trong một niệm khi sanh, trụ, diệt, các phần kiết sử, khi sanh như vậy, khi trụ như vậy, khi diệt như vậy. Các kiết sử do khổ pháp nhẫn và khổ pháp trí đoạn diệt đều biết rõ các kiết sử đã được giải thoát như vậy, được giải thoát về bao nhiêu pháp hữu vi, được giải thoát về bao nhiêu pháp vô vi. Như vậy cho đến đạo tỷ nhẫn (đạo loại nhẫn) trong mười lăm tâm thuộc kiến đế đạo (kiến đạo vị) thì hàng Thanh văn và Bích-chi Phật không thể giác tri, vì thì gian quá mau đối với họ; biết nhân duyên, lậu tận của chúng sanh quá khứ cũng như thế, biết vị lai, hiện tại cũng thế.

    Hành là thân nghiệp, khẩu nghiệp. Nhưng chỉ có thân nghiệp, khẩu nghiệp của Phật là hoàn toàn; còn người khác đều có sai quấy, như thế gọi là Minh hạnh túc.

    * Lại có danh hiệu Tu-già-đa (Sugata - Thiện thệ). Tu (Su) Tàu là dịch khéo; Già-đa (gata) hoặc nói là đi, hoặc là thuyết. Ấy là khéo đi, khéo thuyết. Khéo đi qua là đi trong các Tam-ma-đề sâu xa và vô lượng đại trí tuệ, như kệ nói:

    "Phật lấy Nhất thiết trí làm xe,
    Đi đường Bát chánh vào Niết-bàn.
    Vì vậy gọi là khéo đi (Tu-già-đa).


    Khéo thuyết là như thật tướng các pháp mà thuyết, không vì ưa đắm pháp mà thuyết, quán sát trí tuệ lực của đệ tử. Người ấy dù đem tất cả phương tiện thần thông trí lực mà hóa cũng không độ được; còn người ấy độ được, người ấy mau, người ấy chậm, người ấy nên ở chỗ ấy độ, người ấy nên thuyết về bố thí, hoặc thuyết về trì giới, hoặc thuyết về Niết-bàn, người ấy nên thuyết về năm uẩn (ngũ chúng), mười hai Nhân duyên, các pháp Tứ đế thời có thể đưa họ vào đạo. Biết các loại trí lực của đệ tử như vậy mà vì họ thuyết pháp; ấy là khéo thuyết.

    * Lại có danh hiệu Lô-ca-bị (Lokavid - Thế gian giải). Lô-ca (Loka) Tàu dịch là thế gian, Bị (vid) dịch là tri. Lô-ca-bị là Tri thế gian.

    Hỏi: Thế nào là Tri thế gian?

    Đáp: Biết hai thứ thế gian: Một là chúng sanh, hai là phi chúng sanh. Và đúng như thật tướng biết thế gian, nhân của thế gian, sự diệt tận của thế gian, đạo xuất ly thế gian.

    Lại nữa, biết thế gian không phải như thế tục biết, cũng không phải như ngoại đạo biết. Biết thế gian vì vô thường nên khổ, vì khổ nên vô ngã.

    Lại nữa, biết thế gian phi hữu thường, phi vô thường, phi hữu biên, phi vô biên, phi khứ, phi bất khứ, cũng không đắm trước những tướng như vậy, tướng thanh tịnh, thường bất hoại, như hư không, ấy gọi là Biết thế gian.


    Bọt vỡ tan rồi!, Mộng dở dang ...

  7. #37
    Ban Điều Hành Avatar của hoatihon
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.150
    Thanks
    1.129
    Thanked 1.675 Times in 683 Posts
    ĐẠI TRÍ ĐỘ LUẬN
    Tập 1 _ Cuốn 2 _ Chương 3 _ GIẢI THÍCH: BÀ-GIÀ-BÀ
    __________________________________________________ ______________________________________


    * Lại có danh hiệu là A-nậu-đa-la (Anutara). Tàu dịch là Vô thượng.

    Hỏi: Thế nào là Vô thượng?

    Đáp: Pháp Niết-bàn là Vô thượng. Phật tự biết Niết-bàn ấy, không phải nghe từ người khác, cũng dắt dẫn chúng sanh khiến đi đến Niết-bàn. Như trong các pháp, Niết-bàn là vô thượng, thời trong chúng sanh, Phật cũng Vô thượng.

    Lại nữa, công đức trì giới, thiền định, trí tuệ, giáo hoá chúng sanh, hết thảy không có ai bằng, huống là hơn được, cho nên gọi là Vô thượng.

    Lại nữa, A là không; Nậu-đa-la là trả lời. Hết thảy pháp ngoại đạo có thể trả lời, có thể phá hủy; vì nó không phải là thật, không phải thanh tịnh. Còn Phật pháp không thể trả lời, không có thể phá hủy; vì nó ra ngoài con đường nói năng, cũng là thật, là thanh tịnh. Do đó nên gọi là không trả lời.

    * Lại có danh hiệu là Phú-lâu-sa Đàm-miệu Bà-la-đề (Purasadamysàrathi). Phú-lâu-sa, Tàu dịch là Trượng phu. Đàm-miệu dịch là có thể giáo hóa. Bà-la-đề dịch là Điều ngự sư. Ấy gọi là đấng Thầy điều ngự của những người có thể giáo hoá (Điều ngự trượng phu). Phật đem đại từ đại trí, có khi nói lời êm dịu, có khi nói lời khắc khổ, có khi nói lời chi li, lấy đó điều phục chế ngự khiến không mất Chánh đạo, như kệ nói:

    "Phật pháp là xe, đệ tử là Ngựa,

    Bảo chủ điều ngự thật pháp là Phật,

    Nếu Ngựa vượt ra ngoài lối chánh,

    Thì sẽ tự sửa khiến điều phục.

    Nếu căn nhỏ không điều, thì dùng pháp nhẹ trị,

    Khéo léo thành lập cho vào Thượng đạo,

    Nếu không trị được thì vứt bỏ.

    Do vậy là đấng Điều ngự vô thượng".


    Lại nữa, Điều ngự sư có năm thứ: 1- Trước hết là pháp sửa trị của cha mẹ, anh chị, thân lý. 2- Thứ đến là phép của quan. 3 - Dưới hết là phép của thầy. Đó là ba thứ sửa trị trong đời hiện tại. 4- Đời sau thì có Diêm-la vương trị. 5- Phật thì dạy sự lợi ích an lạc cho đời này, đời sau và Niết-bàn. Thế nên gọi là Điều ngự sư.

    Bốn pháp sửa trị người trên kia không bao lâu tất hủy hoại, không thể thường có kết quả thật sự. Phật thành đạt cho người với ba thứ đạo, thường theo đạo, không bỏ. Như lửa không bỏ tự tướng của nó cho đến khi tắt. Phật làm cho người được thiện pháp cũng vậy, đến chết không bỏ; vì vậy cho nên Phật có hiệu là Điều ngự trượng phu.

    Hỏi: Đối với nữ nhân Phật cũng giáo hoá cho được đạo, sao chỉ nói trượng phu (nam giới)?

    Đáp: Vì người nam là tôn quý, người nữ thì thấp hèn; vì người nữ thì theo người nam. Và vì người nam là chủ sự nghiệp.

    Lại nữa, người nữ có điều chướng ngại là không được làm Chuyển luân vương, Đế thích Thiên vương, Ma thiên vương, Phạm-thiên vương và Phật pháp vương; vì vậy nên Phật không nói.

    Lại nữa, nếu nói Phật là đấng Điều ngự sư của nữ nhân thì không tôn trọng, nếu nói của trượng phu thì gồm hết tất cả. Cũng như vua đến thì không đến một mình, chắc chắn còn có người tùy tùng. Như vậy, nói trượng phu là gồm hết cả người hai căn, không căn và nữ nhân trong đó; vì vậy, nên nói là trượng phu.

    Bởi nhân duyên ấy, Phật là Điều ngự trượng phu.


    Bọt vỡ tan rồi!, Mộng dở dang ...

  8. #38
    Ban Điều Hành Avatar của hoatihon
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.150
    Thanks
    1.129
    Thanked 1.675 Times in 683 Posts
    ĐẠI TRÍ ĐỘ LUẬN
    Tập 1 _ Cuốn 2 _ Chương 3 _ GIẢI THÍCH: BÀ-GIÀ-BÀ
    __________________________________________________ ______________________________________


    * Lại có danh hiệu Xá-đa Đề-bà Ma-nậu-xá-nẫm (Sàstà-devamanusyànàm). Xá-đa (Sàstà) là Giáo sư, Đề-bà là Thiên (trời), Ma-nậu-xá-nẫm (manusyànàm) là Nhân (người). Ấy là Thiên nhân sư.
    Sao gọi là Thiên nhân sư? Phật dạy việc ấy nên làm, việc ấy không nên làm, việc ấy thiện, việc ấy bất thiện, và chúng sanh theo lời dạy mà làm, không bỏ đạo pháp, được quả báo là giải thoát phiền não, ấy gọi là Thiên nhân sư.

    Hỏi: Phật có thể hóa độ Rồng, Quỷ, thần và các chúng sanh trong các đạo khác, sao chỉ nói là Thiên nhân sư?

    Đáp: Độ các loài khác thì ít, độ hàng thiên nhân thì nhiều. Ví như người da trắng, có chấm ruồi đen mà không gọi người da đen, vì đen ít.

    Lại nữa, trong loài người kiết sử mỏng, tâm nhàm chán dễ sanh, trong loài trời trí tuệ lanh lợi, vì vậy hai nơi này dễ đắc đạo; còn trong các loài khác không được như thế.

    Lại nữa, nói thiên là gồm luôn các loài ở trên trời, nói nhân là gồm luôn các loài sanh sống ở quả đất, vì cớ sao? Vì trên trời thì trời lớn hơn cả, trên quả đất thì người lớn hơn cả. Do đó, nói thiên là gồm hết loài trên trời, nói nhân là gồm hết loài trên đất.

    Lại nữa, trong loài người có được sự thọ giới luật nghi, kiến đế đạo (kiến đạo), tư duy đạo (tu đạo) và các đạo quả. Hoặc có người nói: "Trong các loài khác không có được, hoặc có người nói nhiều ít có được; còn trong hàng thiên nhân thì dễ được, nhiều người được". Do vậy Phật gọi là Thiên nhân sư.

    Lại nữa, ở trong loài người tạo nhân vui nhiều, ở trong loài trời hưởng quả báo vui nhiều. Thiện pháp là nhân vui, vui là quả báo của thiện pháp. Trong các loài khác, nhân và báo vui đều ít. Do vậy Phật là Thiên nhân sư.

    * Lại có danh hiệu Phật-đà (Buddha). Tàu dịch là Tri giả. Biết những pháp gì? Biết quá khứ, vị lai, hiện tại, chúng sanh số, phi chúng sanh số, hữu thường, vô thường. Hết thảy các pháp, tại dưới cội bồ-đề, giác tri rõ ràng, cho nên gọi là Phật-đà.

    Hỏi: Người khác cũng biết được hết thảy các pháp, như trời Ma-hê-thủ-la (Mahésvara), Tàu dịch là Đại tự tại, có tám tay, ba mắt, cỡi Bò trắng, Như trời Vĩ-nữu (Visnu), Tàu dịch là Biến văn, có bốn tay, cầm Tù-và (Sankha), nắm bánh xe (cakra), cỡi chim Kim-sí. Như trời Cưu-ma-la (Kumara), Tàu dịch là Đồng tử, tay đưa cao con Gà, cầm linh, nắm phan đỏ, cỡi chim Khổng tước, đều là đại tướng của chư thiên. Các vị như vậy đều gọi là "Đại", đều xưng là Nhất thiết trí. Có người theo làm đệ tử, học kinh sách và lãnh thọ giáo pháp của họ, nói đó là Nhất thiết trí?

    Đáp: Đó không đáng gọi là Nhất thiết trí, vì cớ sao? Vì tâm còn dính vào sân nhuế, kiêu mạn, như kệ nói:


    Bọt vỡ tan rồi!, Mộng dở dang ...

  9. #39
    Ban Điều Hành Avatar của hoatihon
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.150
    Thanks
    1.129
    Thanked 1.675 Times in 683 Posts
    ĐẠI TRÍ ĐỘ LUẬN
    Tập 1 _ Cuốn 2 _ Chương 3 _ GIẢI THÍCH: BÀ-GIÀ-BÀ
    __________________________________________________ ______________________________________


    "Hoặc thấy hình vẽ, hoặc tượng đất,

    Hoặc nghe trong Kinh, hoặc nghe khen.

    Bốn loại chư Thiên như thế ấy,

    Mỗi mỗi tay cầm các binh khí,

    Ai sức không bằng phải sợ hãi,

    Ai tâm bất thiện phải sợ hãi,

    Trời ấy chắc chắn làm người sợ,

    Nếu vì sức kém thì sợ người,

    Đối Trời ấy, hết thảy thường sợ,

    Không thể trừ khử các khổ nạn.

    Người nào phụng sự hoặc cung kính

    Đời nay không khỏi chìm biển khổ.

    Hoặc người không cung kính cúng dường.

    Đời nay chẳng ngại hưởng giàu vui.

    Nên biết đó là giả dối, không thật.

    Thế nên kẻ trí không theo Trời.

    Bởi các chúng sanh trong thế gian.

    Theo nghiệp nhân duyên mà luân hồi,

    Nhờ duyên phước đức sanh Thiên thượng,

    Tạo nghiệp nhân duyên sanh loài người,

    Thế gian hành nghiệp thuộc nhân duyên,

    Thế nên kẻ trí không theo trời".


    Lại nữa ba vị Trời ấy, thương ai thời muốn cho mãn nguyện tất cả, ghét ai thời muốn cho bảy đời tiêu diệt. Lúc làm Bồ-tát, nếu gặp oan gia, giặc đến muốn giết, còn tự đem thân, thịt, đầu, mắt, tủy não mà cho, hà huống là khi đã thành Phật. Nên chỉ có Phật mới có danh hiệu Phật-đà, vậy phải nên quy y Phật, lấy Phật làm thầy, không nên thờ Trời.

    Lại nữa, Phật có hai sự: Một là sức đại công đức thần thông, hai là tâm thanh tịnh bậc nhất, các kiết sử dứt bặt. Chư Thiên tuy có thần lực phước đức, mà vì kiết sử chẳng dứt nên tâm không thanh tịnh, tâm không thanh tịnh nên thần lực cũng ít. Thanh-văn, Bích-chi Phật tuy kiết sử đã dứt, tâm khéo thanh tịnh nhưng vì phước đức mỏng nên lực thể ít. Phật đầy đủ cả hai thứ nên hơn hết mọi người, các người khác không được như vậy nên gọi là Vô thượng sĩ (Sarvanaritama).


    Bọt vỡ tan rồi!, Mộng dở dang ...

  10. #40
    Ban Điều Hành Avatar của hoatihon
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.150
    Thanks
    1.129
    Thanked 1.675 Times in 683 Posts
    ĐẠI TRÍ ĐỘ LUẬN
    Tập 1 _ Cuốn 2 _ Chương 3 _ GIẢI THÍCH: BÀ-GIÀ-BÀ
    __________________________________________________ ______________________________________


    Bà-già-bà (Bhagavat) là có đức (Hữu đức) như trước đã nói.

    Lại có danh hiệu A-ta-ma (Atamà), Tàu dịch Vô đẳng.

    Lại có danh hiệu A-ta-ma-ta-ma (Atamàtamà), Tàu dịch là Vô đẳng đẳng.

    Lại có danh hiệu Lô-ca-na-tha (Lokanàtha), Tàu dịch là Thế Tôn.

    Lại có danh hiệu Bà-la-già (Panaga), Tàu dịch là Độ bỉ ngạn.

    Lại có danh hiệu Bà-đàn-đà (Bhadamta), Tàu dịch là Đại đức.

    Lại có danh hiệu Thi-lê-già-na (Sriguna), Tàu dịch là Hậu đức (Đức dày).

    Như vậy … có vô lượng danh hiệu.

    Tên cha mẹ đặt là Tất-đạt-đa (Siddharta), Tàu dịch là Thành lợi. Khi đắc đạo, biết hết thảy các pháp, nên gọi là Phật, bậc xứng đáng lãnh thọ sự cúng dường của chư thiên và người đời, như vậy được gọi là Đại đức, Hậu đức.

    Như vậy, tùy theo mỗi đức mà lập danh hiệu.

    Hỏi: Vì ông ưa thích Tất-đạt-đa con vua Tịnh-phạn (Suddhodana) dòng Sát-đế-lợi (Ksatriya) nên hết lời xưng tán là Nhất thiết trí, chứ thật không có ai là đấng Nhất thiết trí, đúng không?

    Đáp: Không phải vậy, người nói lời ấy là tà tâm ganh ghét Phật nên vọng ngữ như vậy. Thật sự có đấng Nhất thiết trí, vì sao? Đối với hết thảy chúng sanh, Phật có thân sắc, nhan mạo đoan chánh, không thể bì được. Tướng (laksana), Đức (guna) và Minh (alaka) đầy đủ hơn hết thảy mọi người. Tiểu nhân thấy thân tướng Phật cũng biết đó là đấng Nhất thiết trí, hà huống đại nhân? Như trong kinh Phóng Ngưu thí dụ nói: "Quốc vương xứ Ma-già-đà (Magadha) là Tần-bà-ta-la (Bimbisàra) thỉnh Phật và năm trăm đệ tử trong ba tháng. Vua cần sữa tươi để cúng dường Phật và Tỳ-kheo Tăng nên mới gọi những người chăn trâu đến ở nơi đó, ngày ngày mang sữa tươi đến. Sau ba tháng, Vua cảm thương những người chăn trâu ấy nên bảo: "Các ngươi đi đến hầu Phật rồi trở về chăn trâu".

    Các người chăn trâu đi đến chỗ Phật, ở giữa đường, cùng nhau bàn rằng: "Chúng ta nghe nói Phật là đấng Nhất thiết trí, bọn ta là hạng tiểu nhân hạ liệt, là sao biết được Ngài là đấng Nhất thiết trí hay không?"

    Các người Bà-la-môn ưa uống sữa, thường qua lại chỗ các người chăn trâu mà làm thân thiện. Những người chăn trâu do đó được nghe danh hiệu về các Kinh sách của Bà-la-môn, nên nói với nhau: "Phương pháp trị bệnh, phương pháp chiến đấu, phương pháp xem tinh tú, phương pháp tế trời, ca múa, phương pháp luận nghị, nạn vấn v.v… sáu mươi bốn thứ kỷ nghệ thế gian ấy, con vua Tịnh-phạn học rộng nghe nhiều, thì biết những việc ấy không khó, nhưng mà từ khi sanh đến nay không hề chăn Trâu. Vậy chúng ta hãy lấy bí pháp chăn trâu để hỏi, nếu giải đáp được thì mới thật là bậc Nhất thiết trí".

    Bàn như vậy xong, họ cùng nhau bước vào vườn Trúc (Venuvana), thấy ánh sáng của Phật chiếu khắp rừng, tiến tới trước tìm Phật; thấy Phật ngồi dưới cây, trạng tợ núi vàng, như sữa tươi rót vào lửa, cháy rực sáng ngời, hoặc tợ như vàng ròng rải màu Tử kim trên khắp rừng Trúc, trông không biết chán, tâm rất hoan hỷ, cùng nhau nói:


    Bọt vỡ tan rồi!, Mộng dở dang ...

Thông tin chủ đề

Users Browsing this Thread

Hiện có 2 người đọc bài này. (0 thành viên và 2 khách)

Quyền viết bài

  • Bạn không thể gửi chủ đề mới
  • Bạn không thể gửi trả lời
  • Bạn không thể gửi file đính kèm
  • Bạn không thể sửa bài viết của mình
  •