DIỄN ĐÀN PHẬT PHÁP THỰC HÀNH - Powered by vBulletin




Cùng nhau tu học Phật pháp - Hành trình Chân lý !            Hướng chúng sinh đi, hướng chúng sinh đi, để làm Phật sự không đối đãi.


Tánh Chúng sinh cùng Phật Quốc chỉ một,
Tướng Bồ Đề hóa Liên hoa muôn vạn.

Trang 7/35 ĐầuĐầu ... 5678917 ... CuốiCuối
Hiện kết quả từ 61 tới 70 của 341
  1. #61
    Ban Điều Hành Avatar của hoatihon
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.150
    Thanks
    1.129
    Thanked 1.675 Times in 683 Posts
    ĐẠI TRÍ ĐỘ LUẬN
    Tập 1 _ Cuốn 3 _ Chương 5 _ GIẢI THÍCH: CỌNG MA-HA TỲ-KHEO TĂNG
    __________________________________________________ ______________________________________


    KINH: Do chánh trí được giải thoát.

    LUẬN: Như đệ tử của Phạm-chí Ma-kiện-đề đem thân ông để trên giường, rồi khiêng đi giữa thành thị chỗ nhiều người, và xướng lên: "Nếu người có mắt chỉ thấy được thây của Ma-kiện-đề, thời người đó đều được đạo thanh tịnh, huống là người lễ bái cúng dường?"

    Có nhiều người tin theo lời đó. Các Tỳ-kheo nghe lời ấy bạch Phật: "Bạch Thế Tôn , việc ấy thế nào?" Phật nói kệ:

    "Tiểu nhân mắt thấy, cầu thanh tịnh,

    Như vậy không trí, không thật đạo,

    Các kết, phiền não đầy trong tâm,

    Làm sao mắt thấy, được tịnh đạo.

    Nếu có mắt thấy được thanh tịnh,

    Cần gì trí tuệ và công đức,

    Mắt thấy cầu tịnh, không việc ấy,

    Công đức, trí tuệ mới là tịnh".

    Vì vậy nên nói "Do chánh trí được giải thoát".


    Hỏi: Các A-la-hán, những gì phải làm đã làm xong, không cần cầu tiến, cớ sao thường ở bên Phật, không đi nơi khác mà độ sanh?

    Đáp: Hết thảy chúng sanh trong mười phương tuy đều nên cúng dường Phật, nhưng A-la-hán thọ ân Phật nặng hơn nên cúng dường gấp bội, vì cớ sao? Vì A-la-hán ấy theo Phật mà được lãnh thọ vô lượng công đức, biết kiết sử đã dứt, tín tâm càng nhiều, thế nên các đại đức A-la-hán ở bên Phật lãnh thọ mùi vị an vui của công đức và cung kính cúng dường báo ân đức Phật; vì vậy mà ở bên Phật. Các A-la-hán vây quanh Phật thì Phật đức thêm tôn quý; như người dân Phạm-thiên vây quanh vua Phạm-thiên, như trời Ba-mươi-ba vây quanh trời Thích-đề-hoàn-nhơn. Như các Quỷ Thần vây quanh vua Tỳ-sa-môn, như các Tiểu vương ở quanh Chuyển luân Thánh vương, như người bệnh khi lành ở quanh người thày thuốc giỏi. Như vậy các A-la-hán ở hai bên Phật, các A-la-hán vây quanh cúng dường Phật, nên Phật đức thêm tôn nghiêm.

    Hỏi: Nếu các A-la-hán, những gì phải làm đã làm xong, đã được lợi mình không cần nghe pháp, cớ sao khi Phật nói Bát-nhã Ba-la-mật, lại cùng với năm ngàn A-la-hán?

    Đáp: Các A-la-hán tuy những gì phải làm đã làm xong, nhưng Phật muốn đem trí tuệ thậm thâm để thử, như đã thử Xá-lợi-phất. Như trong kinh Bà-la-môn (Bàràyana), A-kỳ-đà-na mà thuyết kệ:

    "Các hạng người hữu học,

    Và các người đếm pháp,

    Xin như Phật mà nói,

    Pháp sở hành của họ".


    Trong ấy, thế nào là người học? Thế nào là người đếm pháp? Bấy giờ, Xá-lợi-phất im lặng. Phật hỏi như vậy ba lần, Xá-lợi-phất đều im lặng. Phật muốn chỉ bày đầu mối của nghĩa lý, mới hỏi Xá-lợi-phất: "Có sanh chăng?" Xá-lợi-phất thưa: "Bạch Đại đức Thế Tôn, có sanh".

    Có sanh là vì muốn diệt pháp hữu vi, có sanh nên gọi là người học. Do trí tuệ được pháp vô sanh, nên gọi là người đếm pháp.

    Kinh này nên nói rộng ra trong ấy.

    Lại nữa, hoặc hữu lậu, hoặc vô lậu, các thiền định chưa được nên muốn được, đã được muốn cho bền sâu, nên các A-la-hán ở bên Phật để nghe pháp.

    Lại nữa, vì vui hiện tiền, như trong Nan-đà-ca nói: "Vì đời này được vui nên nghe pháp".

    Lại nữa, các A-la-hán ở bên Phật nghe pháp, tâm không nhàm chán, như trong Kinh Tỳ-lô-đề-ca (Pilotikasutra) nói: "Xá-lợi-phất nói với Tỳ-lô-đề-ca rằng: "Trong pháp của ta, được nghe pháp không biết nhàm chán".

    Lại nữa, như Phật Đại sư mà còn nhất tâm ở bên đệ tử để nghe họ thuyết pháp. Do đó không nên nạn rằng: "A-la-hán là những gì phải làm đã làm xong, cớ sao còn nghe pháp?" Ví như có người đủ no mà gặp món ăn ngon còn ăn nữa, huống chi người đang đói khát mà không nên ăn? Vì thế nên các A-la-hán tuy những gì phải làm đã làm xong, vẫn thường ở bên Phật để nghe pháp.

    Lại nữa, Phật trú trong pháp giải thoát, các A-la-hán cũng trú trong pháp giải thoát. Cùng trú pháp như nhau nên cùng làm quyến thuộc để trang nghiêm. Như trong Kinh Chiên-đàn Thí dụ nói: "Rừng có cây Chiên-đàn thì có cây Y-lan vây quanh, rừng có cây Y-lan thì có cây Chiên-đàn vây quanh. Có Chiên-đàn thì Chiên-đàn họp lại thành rừng cây, có Y-lan thì Y-lan thì họp lại vây quanh lẫn nhau. Phật và các A-la-hán cũng như vậy. Phật trú trong thiện pháp giải thoát, các A-la-hán cũng trú trong thiện pháp giải thoát. Cùng trú pháp như nhau nên cùng làm quyến thuộc để trang nghiêm. Phật có đại chúng vây quanh, như núi chúa Tu-di có mười núi báu vây quanh, như voi chúa bạch huơng có voi bạch huơng vây quanh, như sư tử vương có chúng sư tử vây quanh. Phật cũng như vậy, Phật là phước điền vô thượng của thế gian, cọng trú với các đệ tử vây quanh.


    Bọt vỡ tan rồi!, Mộng dở dang ...

  2. #62
    Ban Điều Hành Avatar của hoatihon
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.150
    Thanks
    1.129
    Thanked 1.675 Times in 683 Posts
    ĐẠI TRÍ ĐỘ LUẬN
    Tập 1 _ Cuốn 3 _ Chương 5 _ GIẢI THÍCH: CỌNG MA-HA TỲ-KHEO TĂNG
    __________________________________________________ ______________________________________


    KINH: Chỉ trừ A-nan, đang ở Học địa, được quả Tu-đà-hoàn.

    LUẬN: Hỏi: Cớ sao nói chỉ trừ A-nan?

    Đáp: Các A-la-hán được tán thán trên đây, A-nan không ở trong số đó, vì sao? Vì đang ở Học địa, chưa lìa hết dục.

    Hỏi: Đại đức A-nan là vị Thầy thứ ba, là vị tướng lãnh về Chánh pháp của đại chúng, từng gieo giống Niết-bàn qua vô lượng kiếp, thường gần Phật, gìn giữ Pháp tạng. Đại đức là bậc lợi căn như vậy sao đến nay vẫn chưa lìa hết dục, mà còn làm Học nhân?

    Đáp: Đại đức A-nan vốn nguyện như vầy: "Ta là bậc nhất trong chúng đa văn", lại cũng vì pháp của chư Phật, các A-la-hán đã làm xong những gì phải làm, thì không nên làm người cung cấp cúng dường, vì các A-la-hán ở trong Phật pháp có thể thành tựu việc lớn, đã phá giặc phiền não, cùng với Phật ngồi trên giường giải thoát.

    Lại nữa, Trưởng lão A-nan, đối với các Kinh thường nghe, thọ trì, đọc tụng thông lợi, quán sát nên trí tuệ nhiều mà sự nhiếp tâm ít. Hai thứ công đức này phải bằng nhau, mới có thể được lậu tận; vì lẽ đó mà A-nan còn là vị Học nhân Tu-đà-hoàn.

    Lại nữa, vì ham cung cấp cho Thế Tôn, nên A-nan làm người cung cấp cho Phật. A-nan lại suy nghĩ như vầy: "Nếu ta sớm thủ chứng lậu tận, thời phải xa Thế Tôn, không còn được làm người cung cấp. Vì vậy nên A-nan tuy có thể chứng đắc đạo quả A-la-hán mà tự chế không thủ chứng.

    Lại nữa, xứ, thời, và người chưa hợp lại. Ngàn A-la-hán có khả năng kiết tập Pháp tạng chưa họp ở núi Kỳ-xà-quật, đó là xứ. Thời mà Thế Tôn qua đi chưa đến và Trưởng lão Kỳ-bà-tử chưa ở đó (nhờ Kỳ-bà-tử khuyên A-nan mới lậu tận); vì thế nên Trưởng lão A-nan lậu chưa sạch. Phải khi Thế Tôn qua đi, chúng kiết tập Pháp hợp một chỗ, và Kỳ-bà-tử thuyết pháp cơ hiềm, khuyên can, cả ba sự đó hợp lại thì A-nan mới được lậu tận.

    Lại nữa, Đại đức A-nan nhàm chán thế pháp ít, không như người khác, đó là do A-nan đời đời ở giòng Vương giả, đoan chánh vô song, phước đức vô lượng, là bà con gần với Thế Tôn, thường hầu hạ Phật, ắt có ý nghĩ: "Ta hầu gần Phật, biết tạng Pháp bảo, đạo pháp lậu tận, ta không sợ mất"; vì sự ấy mà không ân cần lắm đến việc lậu tận.

    Hỏi: Tên Đại đức A-nan là do nhân duyên nào? Do nhân duyên đời trước, hay do cha mẹ đặt, hay nương theo nhân duyên mà đặt?

    Đáp: Do nhân duyên đời trước, cũng do cha mẹ đặt, và cũng nương theo nhân duyên mà đặt.

    Hỏi: Nhân duyên đời trước như thế nào?

    Đáp: Thích-ca Văn Phật đời trước là người thợ làm ngói tên là Đại-quang-minh (Prabhasa). Bấy giờ có Phật hiệu là Thích-ca Văn, đệ tử tên là Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên, A-nan. Phật và đệ tử cùng đi đến nhà người thợ làm ngói nghỉ một đêm. Bấy giờ người thợ ngói cúng dường Phật và Tỳ-kheo tăng ba thứ: Chiếu cỏ, đèn và mật, rồi phát nghuyện rằng: "Đương lai trong đời năm ác, già, bệnh, chết, khổ não tôi sẽ làm Phật cũng hiệu là Thích-ca Văn như Phật ngày nay. Đệ tử tôi cũng có tên như đệ tử Phật ngày nay". Do lời nguyện của Phật như vậy mà có tên là A-nan.


    Bọt vỡ tan rồi!, Mộng dở dang ...

  3. #63
    Ban Điều Hành Avatar của hoatihon
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.150
    Thanks
    1.129
    Thanked 1.675 Times in 683 Posts
    ĐẠI TRÍ ĐỘ LUẬN
    Tập 1 _ Cuốn 3 _ Chương 5 _ GIẢI THÍCH: CỌNG MA-HA TỲ-KHEO TĂNG
    __________________________________________________ ______________________________________


    Lại nữa, A-nan đời đời lập nguyện rằng: "Ta ở trong chúng đệ tử đa văn của Phật Thích-ca Văn, nguyện là bậc nhất và tên là A-nan".

    Lại nữa, A-nan đời đời nhẫn nhục, trừ sân hận, vì nhân duyên ấy, khi sanh ra đoan chánh. Cha mẹ vì chỗ đoan chánh làm cho ai nấy đều hoan hỷ, nên đặt tên là A-nan.

    A-nan, Tàu dịch là Hoan hỷ. Đó là tên do nhân duyên đời trước. Nhân duyên do cha mẹ đặt tên như thế nào? Xưa có vua Nhật Chủng (giòng mặt trời) tên là Sư-tử-hiếp (Simhahanu). Vua có bốn người con trai, người con thứ nhất tên là Tịnh-Phạn (Sudhodana), thứ hai tên Bạch-phạn (Suklodana), thứ ba tên Hộc-phạn (Pronodana), thứ tư tên Cam-lộ-phạn (Amrtodana) và một người con gái tên là Cam-lộ-vị (Amrtàrasa). Vua Tịnh-Phạn có hai con trai là Tất-đạt-đa và Nan-đà. Vua Bạch-phạn có hai con trai là Bạt-đề và Đề-sa (Bhadrika và Tisya). Vua Hộc-Phạn có hai con trai là Đề-bà-đạt-đa và A-nan (Devadatta và Ananda). Vua Cam-lộ-Phạn có hai con trai là Ma-ha-nam và A-nê-lô-đậu (Mahanaman và Anirudha). Công chúa Cam-lộ-vị có một con trai tên Thi-bà-la (Danapala).

    Trong số đó, Bồ-Tát Tất-đạt-đa, dần dần lớn lên, bỏ địa vị Chuyển luân Thánh vương, nửa đêm xuất gia, đi đến trong nước Âu-lâu-tỳ-la (Uruvela) bên bờ sông Ni-liên-thuyền, sáu năm khổ hạnh.

    Bấy giờ, vì thương nhớ con nên vua Tịnh-phạn thường sai sứ đi tìm, muốn biết tin tức con mình đắc đạo chăng? Bệnh hay chết? Sứ giả trở về tâu vua: "Bồ-tát chỉ còn da bọc xương gân, thân mạng rất suy vi; hoặc nay, hoặc mai, chẳng còn bao lâu nữa". Vua nghe nói hết sức sầu nhớ, chìm trong biển ưu não mà than: "Con ta đã không làm Chuyển luân vương, lại không được làm Phật, sao lại chỉ chịu suy nhược khổ sở, không được chi cả, mà chết!". Vua ưu não như vậy đến hoang mang, mờ mịt, bối rối, bế tắc!

    Bấy giờ, Bồ-tát bỏ lối tu khổ hạnh, ăn cháo sữa trăm vị, thân thể no đủ, xuống sông Ni-liên-thuyền tắm rửa xong, đi đến dưới cội Bồ-đề, ngồi toà Kim-cang mà thề rằng: "Ta thề không bỏ chỗ ngồi kiết già này cho đến khi thành đạt Nhất thiết trí, nếu không đạt được Nhất thiết trí, thì không rời bỏ chỗ này".

    Bấy giờ Ma vương dẫn chúng mười tám vạn ức đến chỗ Bồ-tát, dám quyết hơn thua cùng Bồ-tát. Bồ-tát dùng sức trí tuệ cả phá Ma quân. Ma không hơn được phải rút lui mà tự nghĩ: "Không thắng được Bồ-tát thì hãy đến làm khổ cha của người", liền đến chỗ vua Tịnh-phạn nói dối rằng: "Con ông vừa cuối đêm nay đã qua đời rồi". Vua nghe lời ấy, sợ hãi té trên giường, như cá vùi trong cát nóng. Vua khóc và nói:


    Bọt vỡ tan rồi!, Mộng dở dang ...

  4. #64
    Ban Điều Hành Avatar của hoatihon
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.150
    Thanks
    1.129
    Thanked 1.675 Times in 683 Posts
    ĐẠI TRÍ ĐỘ LUẬN
    Tập 1 _ Cuốn 3 _ Chương 5 _ GIẢI THÍCH: CỌNG MA-HA TỲ-KHEO TĂNG
    __________________________________________________ ______________________________________


    "A-tư-đà (Tiên nhân Ajita - A-tư-đà - xem tướng Thái tử) nói quấy,

    Điềm lành cũng chẳng linh,

    Được lợi, tiếng thơm tho,

    Tất cả đều chẳng có".


    Bấy giờ thọ thần Bồ-đề rất hoan hỷ, cầm hoa trời Mạn-đà-la đến chỗ vua Tịnh-phạn nói kệ:

    "Con ngài đã Đắc đạo,

    Đã phá tan chúng Ma,

    Sáng như mặt trời mọc,

    Soi thấu cả mười phương.

    Hoan hỷ được lợi lớn,

    Giải thoát hết thảy khổ,

    Nay đã Chuyển xe pháp,

    Không đâu không thanh tịnh".

    Vua nói: "Trước đây có một vị Trời đến nói con ta đã chết, nay ngươi đến nói phá hoại Ma quân, đắc đạo, hai lời nói trái nhau, biết ai đáng tín?" Thần cây lại nói: "Thật không vọng ngữ. Vị trời trước nói dối đã chết, đó là Ma ôm lòng ganh tị nên đến xúc não. Ngày nay các vị Trời, Rồng và Thần đem hoa hương cúng dường, giăng đầy giữa hư không. Con Ngài thân phóng ra ánh sáng chiếu khắp trời đất".

    Vua nghe lời ấy, cởi bỏ tất cả tâm ưu sầu khổ não, nói: "Con ta tuy bỏ ngôi Chuyển luân Thánh vương, nay được ngôi Pháp chuyển luân vương, thật được đại lợi, chẳng mất mát gì", nên lòng vua rất hoan hỷ.

    Bấy giờ sứ giả của Hộc-phạn vương đến tâu cùng Tịnh-phạn vương: "Hộc-phạn vương vừa sanh được con trai". Tâm của vương rất hoan hỷ, nói: "Ngày nay thật là đại cát, là ngày hoan hỷ". Vua nói với sứ giả rằng: "Đứa trẻ ấy nên đặt tên là A-nan", đó là tên cha mẹ đặt.

    Nương theo nhân duyên mà đặt tên là như thế nào? Thân hình của A-nan đoan chánh, thanh tịnh, như tấm gương sáng đẹp, dung nhan tướng mạo già hay trẻ, đẹp hay xấu đều hiện cả trong thân. Thân ấy tươi sáng trong sạch, người nữ trông thấy, dục tâm liền động, cho nên Phật cho phép A-nan mang y che vai.

    Vì A-nan thường khiến người khác trông thấy thì tâm và mắt đều hoan hỷ, cho nên gọi là A-nan. Bấy giờ người tạo luận tán rằng:

    "Mắt như trăng tròn sáng,

    Mắt như hoa sen xanh,

    Nước biển cả Phật pháp,

    Chảy vào tâm A-nan.

    Hay làm đắm mắt người,

    Trông thấy tâm hoan hỷ,

    Ai đều cầu thấy Phật,

    Hiện đủ không thiếu vẻ".


    Như vậy A-nan tuy có thể chứng được đạo quả A-la-hán, song vì sự cúng dường Phật, nên không dứt hết lậu. Do có đại công đức đó, tuy không phải là bậc Vô học mà được ở trong số Vô học, tuy chưa ly dục mà ở trong số ly dục. Do vậy nên trong số năm ngàn, vì thật chưa phải đều là A-la-hán nên nói "chỉ trừ A-nan".


    Bọt vỡ tan rồi!, Mộng dở dang ...

  5. #65
    Ban Điều Hành Avatar của hoatihon
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.150
    Thanks
    1.129
    Thanked 1.675 Times in 683 Posts
    ĐẠI TRÍ ĐỘ LUẬN
    Tập 1 _ Cuốn 3 _ Chương 6 _ GIẢI THÍCH: NGHĨA BA CHÚNG
    __________________________________________________ ______________________________________


    Chương 6

    GIẢI THÍCH: "NGHĨA BA CHÚNG"

    KINH: Lại có năm trăm Tỳ-kheo-ni, Ưu -bà-tắc, Ưu-bà-di, đều đã thấy được Thánh đế

    LUẬN: Hỏi: Vì sao chúng Tỳ-kheo có năm ngàn, còn ba chúng kia mỗi chúng chỉ có năm trăm?

    Đáp: Người nữ phần nhiều trí tuệ kém, phiền não nặng nề, chỉ mong hỷ lạc, ái hành nhiều, ít có thể đoạn kiết sử để chứng được giải thoát, như Phật nói: "Pháp nhân duyên khởi ấy sâu xa bậc nhất, khó thấy được. Đoạn hết thảy phiền não, ly dục, chứng được Niết-bàn lại càng khó thấy hơn". Cho nên người nữ không thể chứng được nhiều, không bằng chư Tỳ-kheo.

    Chúng Ưu -bà-tắc, Ưu-bà-di là hàng cư gia, tâm bất tịnh, không thể đoạn hết các lậu, chỉ có thể thấy được lý Tứ đế, mà ở vào hàng Hữu học, như kệ nói:

    "Khổng tước tuy có thân sắc đẹp,

    Không bằng hồng nhạn bay được xa,

    Bạch y tuy có được phú quý,

    Không bằng xuất gia công đức hơn".

    Các Tỳ-kheo-ni tuy xuất gia, từ bỏ vinh hoa ở đời, mà trí tuệ kém, nên chỉ có năm trăm Tỳ-kheo-ni A-la-hán.

    Hai chúng Bạch y cư gia, công việc bận rộn, nên đắc đạo ít, chỉ có năm trăm.

    Hỏi: Như năm ngàn A-la-hán đều được tán thán, sao ba chúng này không được tán thán ?

    Đáp: Đại chúng đã được tán thán, thời biết các chúng kia cũng được tán thán.

    Lại nữa, nếu tán thán riêng từng chúng thì bọn Ngoại đạo sẽ chê trách: "Sao lại tán thán Tỳ-kheo-ni, và sanh tâm phỉ báng họ", hoặc nếu tán thán Bạch y, thì sẽ bị nói "để đuợc cúng dường"; cho nên không tán thán.

    Hỏi: Trong các kinh Đại thừa khác, Phật cùng với chúng đại Tỳ-kheo hoặc tám ngàn người, hoặc sáu vạn, mười vạn người. Còn kinh Đại Bát-nhã Ba-la-mật ấy, là lớn bậc nhất trong các kinh, như trong phẩm Chúc lụy nói: "Các kinh khác đều quên hết tội đó rất ít, còn quên một câu kinh Bát-nhã Ba-la-mật, thì tội đó rất nhiều", cho nên biết kinh Bát-nhã Ba-la-mật là lớn bậc nhất. Ngay trong đại hội thứ nhất của kinh bậc nhất ấy, tại sao chúng Thanh-văn số ít, chỉ có Tỳ-kheo năm ngàn, Tỳ-kheo-ni, Ưu -bà-tắc, Ưu-bà-di mỗi chúng chỉ có năm trăm?

    Đáp: Vì đại kinh ấy sâu xa khó hiểu, nên chúng Thanh-văn ít. Ví như vua có thứ báu thật, thì không bày ra cho phàm nhân xem mà chỉ cho đại nhân đáng tin yêu xem mà thôi. Cũng ví như khi vua mưu nghị thì chỉ bàn với các đại thần và người trí đáng tin yêu, còn các bề tôi thời không được dự vào.

    Lại nữa, sáu ngàn năm trăm người ấy đều đã đắc đạo, tuy không hiểu hết Bát-nhã Ba-la-mật sâu xa này, nhưng đều có thể tín thọ, vì đã được bốn thứ thuộc vô lậu. Ở các kinh khác, chúng Thanh-văn tuy nhiều nhưng hỗn tạp, không phải tất cả đều đắc đạo.

    Lại nữa, ở trong đó, trước khi tán thán ngàn vạn A-la-hán, chọn lấy số tối thắng là năm ngàn người. Tỳ-kheo-ni, Ưu -bà-tắc, Ưu-bà-di cũng thế. Người tối thắng khó được cho nên không nhiều.

    (Hết cuốn 3 theo bản Hán)



    Bọt vỡ tan rồi!, Mộng dở dang ...

  6. #66
    Ban Điều Hành Avatar của hoatihon
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.150
    Thanks
    1.129
    Thanked 1.675 Times in 683 Posts
    ĐẠI TRÍ ĐỘ LUẬN
    Tập 1 _ Cuốn 4 _ Chương 7 _ GIẢI THÍCH: BỒ TÁT
    __________________________________________________ ______________________________________


    Cuốn 4 - CHƯƠNG 7

    GIẢI THÍCH: BỔ-TÁT

    KINH: Lại có Bồ-tát Ma-ha-tát

    LUẬN: Hỏi: Nếu kể từ trên kể xuống thì phải Bồ-tát trước rồi mới đến Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu -bà-tắc, Ưu-bà-di; vì Bồ-tát kề dưới Phật. Nếu từ dưới kể lên thì phải kể Ưu-bà-di, rồi mới đến Ưu -bà-tắc, Tỳ-kheo-ni, Tỳ-kheo, Bồ-tát. Nay cớ sao trước nói Tỳ-kheo, rồi mới đến ba chúng, sau mới nói Bồ-tát?

    Đáp: Bồ-tát tuy là dưới Phật, nhưng vì các phiền não chưa sạch hết nên nói đến A-la-hán trước. Các A-la-hán trí tuệ tuy ít mà đã thành thục, các Bồ-tát trí tuệ tuy nhiều mà phiền não chưa sạch hết nên nói A-la-hán trước.

    Phật pháp có hai loại: Một là bí mật, hai là hiển thị. Trong hiển thị, thì Phật, Bích-chi Phật, A-la-hán đều là phước điền; vì đã sạch hết phiền não không còn thừa. Trong bí mật thì nói các Bồ-tát được Vô sanh Pháp nhẫn, phiền não đã dứt, đủ sáu thần thông, làm lợi ích chúng sanh. Vì theo pháp hiển thị nên trước nói A-la-hán sau nói Bồ-tát.

    Lại nữa, Bồ-tát dùng phương tiện lực thị hiện vào năm đường, thọ năm dục lạc, để dẫn đạo chúng sanh. Nếu Bồ-tát ở trên A-la-hán thì chư thiên, người đời sanh nghi ngờ, quái lạ nên nói sau.

    Hỏi: Ở sau A-la-hán thì còn được cớ sao lại ở sau cả Ưu -bà-tắc, Ưu-bà-di?

    Đáp: Bốn chúng tuy chưa sạch hết lậu, nhưng không bao lâu sẽ hết, nên gọi chung là chúng Thanh-văn. Nếu trong bốn chúng mà xen nói Bồ-tát vào thì bất tiện. Như Tỳ-kheo-ni được vô lượng luật nghi đáng nên ở sau Tỳ-kheo và trước Sa-di, nhưng vì nghi pháp bất tiện nên Phật nói sau Sa-di. Các Bồ-tát cũng như thế, tuy đáng ở trên ba chúng Hữu học nhưng mà vì không tiện nói nên nói sau.

    Lại nữa, có người nói: Bồ-tát có công đức và trí tuệ siêu việt thù thắng hơn A-la-hán, Bích-chi Phật, cho nên nói riêng.

    Hỏi: Trong kinh Thanh-văn chỉ nói bốn chúng, trong đây cớ gì chỉ nói riêng chúng Bồ-tát?

    Đáp: Có hai đạo: Một là Thanh-văn đạo, hai là Bồ-đề-tát-đỏa đạo. Nếu nói bốn chúng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu -bà-tắc, Ưu-bà-di; nên biết đó là hạng người cầu Thanh-văn đạo. Nếu nói riêng chúng Bồ-tát Ma-ha-tát nên biết đó là hạng người cầu Phật đạo. Vì vậy, nên trong pháp Thanh-văn, ở đầu kinh không nói Phật trú ở chỗ ấy, cùng với bấy nhiêu Bồ-tát, mà chỉ nói Phật trú ở chỗ ấy cùng với bao nhiêu Tỳ-kheo, như nói Phật ở Ba-la-nại cùng với năm Tỳ-kheo. Phật ở tại nước Già-gia cùng với ngàn Tỳ-kheo. Phật ở nước Xá-bà-đề cùng với năm trăm Tỳ-kheo. Khởi đầu các kinh như vậy đều không nói cùng với bao nhiêu Bồ-tát.


    Bọt vỡ tan rồi!, Mộng dở dang ...

  7. #67
    Ban Điều Hành Avatar của hoatihon
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.150
    Thanks
    1.129
    Thanked 1.675 Times in 683 Posts
    ĐẠI TRÍ ĐỘ LUẬN
    Tập 1 _ Cuốn 4 _ Chương 7 _ GIẢI THÍCH: BỒ TÁT
    __________________________________________________ ______________________________________


    Hỏi: Bồ-tát có hai hạng: Xuất gia và tại gia. Bồ-tát tại gia nói chung trong chúng Ưu -bà-tắc, Ưu-bà-di. Bồ-tát xuất gia nói chung trong chúng Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni. Nay vì sao lại nói riêng?

    Đáp: Tuy ở chung trong bốn chúng mà nên phải nói riêng, vì sao? Vì Bồ-tát thuộc vào bốn chúng mà bốn chúng không hẳn là Bồ-tát. Tại sao vậy? Vì có người cầu thành Thanh-văn, có người cầu thành Bích-chi Phật, có người cầu sanh lên trời, có người cầu sinh sống an lạc. Bốn hạng người này không thuộc vào hàng Bồ-tát, vì những người ấy không phát tâm nói rằng: "Tôi nguyện sẽ làm Phật".

    Lại nữa, Bồ-tát chứng được Vô sanh Pháp nhẫn, tất cả tướng danh tự tử sanh đều dứt hết, ra ngoài ba cõi, không rơi vào trong số chúng sanh, vì sao? Vì Thanh-văn được đạo quả A-la-hán còn không rơi vào trong số chúng sanh, hà huống Bồ-tát, như trong Ưu-ba-thi-nạn ở kinh Ba-la-diên có kệ:

    "Chỗ đã diệt vô, tái xuất chăng?

    Đã vĩnh diệt, chẳng tái xuất chăng?

    Đã vào Niết-bàn, thường trú chăng?

    Nguyện đấng Đại trí nói sự thật".


    Phật đáp:

    "Tịch diệt, tức là không thể lường,

    Phá hoại nhân duyên và danh tướng,

    Hết thảy ngôn ngữ đều đã qua,

    Tất cả đều hết như lửa tắt".


    Như A-la-hán mà hết thảy danh tự còn dứt huống là Bồ-tát có thể phá tất cả các pháp, biết thật tướng, được pháp thân mà không dứt được ư? Vì thế nên trong hàng tứ chúng của Đại thừa, nói riêng Bồ-tát.

    Hỏi: Cớ sao mở đầu Kinh Đại thừa, nói cả chúng Bồ-tát, chúng Thanh-văn, mà mở đầu Kinh Thanh-văn chỉ nói đến chúng Tỳ-kheo, không nói đến chúng Bồ-tát?

    Đáp: Vì muốn biện thuyết hai thừa: Phật thừa và Thanh-văn thừa. Thanh-văn thừa nhỏ hẹp, Phật thừa rộng lớn; Thanh-văn thừa tự làm tự lợi, Phật thừa lợi ích tất cả.

    Lại nữa, Thanh-văn thừa phần nhiều thuyết "chúng sanh không", Phật thừa thuyết cả "chúng sanh không" và "pháp không". Như vậy v.v… đủ cả các thứ phân biệt ba thừa. Vì phân biệt thuyết về hai đạo ấy (Thanh-văn đạo và Bồ-tát đạo) nên trong Kinh Đại thừa nói cả chúng Thanh-văn và chúng Bồ-tát , như bài kệ tán Đại thừa nói:


    Bọt vỡ tan rồi!, Mộng dở dang ...

  8. #68
    Ban Điều Hành Avatar của hoatihon
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.150
    Thanks
    1.129
    Thanked 1.675 Times in 683 Posts
    ĐẠI TRÍ ĐỘ LUẬN
    Tập 1 _ Cuốn 4 _ Chương 7 _ GIẢI THÍCH: BỒ TÁT
    __________________________________________________ ______________________________________


    "Người được pháp Đại-thừa,

    Đem an lạc khắp cả,

    Lợi ich bằng thật pháp,

    Khiến được đạo Vô thượng.

    Người được pháp Đại-thừa,

    Từ bi với tất cả,

    Đem đầu, mắt bố thí,

    Bỏ đi như cỏ cây.

    Người được pháp Đại-thừa,

    Hộ trì giới thanh tịnh,

    Như trâu đen quý đuôi,

    Không tiếc đến thân mạng.

    Người được pháp Đại-thừa,

    Thì được nhẫn vô thượng,

    Nếu có cắt xẻo thân,

    Xem đó như cắt cỏ.

    Người được pháp Đại-thừa,

    Tinh tấn không nhàm mỏi,

    Gắng làm không ngừng nghỉ,

    Như người tát biển cả.

    Người được pháp Đại-thừa,

    Rộng tu vô lượng định,

    Sức thần thông, Thánh đạo,

    Được thanh tịnh tự tại.

    Người được pháp Đại-thừa,

    Phân biệt các pháp tướng,

    Thật trí tuệ bất hoại,

    Trong ấy đã đầy đủ.

    Trí bất khả tư nghì,

    Sức bi tâm vô lượng,

    Không vào trong nhị pháp,

    Đặng quán hết thảy pháp.

    Xe lừa, ngựa, đà, voi,

    Tuy đồng, không sánh nhau.

    Bồ-tát và Thanh-văn,

    Lớn nhỏ cũng như thế.

    Đại từ bi làm trục,

    Trí tuệ làm hai bánh,

    Tinh tấn làm ngựa hay,

    Khớp miệng bằng giới định.

    Nhẫn nhục làm áo giáp,

    Tổng trì làm cương Ngựa,

    Người đi xe Đại-thừa,

    Qua khỏi được tất cả".



    Bọt vỡ tan rồi!, Mộng dở dang ...

  9. #69
    Ban Điều Hành Avatar của hoatihon
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.150
    Thanks
    1.129
    Thanked 1.675 Times in 683 Posts
    ĐẠI TRÍ ĐỘ LUẬN
    Tập 1 _ Cuốn 4 _ Chương 7 _ GIẢI THÍCH: BỒ TÁT
    __________________________________________________ ______________________________________


    Hỏi: Như Kinh Thanh-văn, mở đầu chỉ kể chúng Tỳ-kheo, còn Kinh Ma-ha Diễn, mở đầu kể luôn chúng Bồ-tát. Tại sao vậy?

    Đáp: Ma-ha Diễn rộng lớn, các thừa các đạo đều vào trong Ma-ha Diễn. Chúng Thanh-văn nhỏ hẹp, không dung thọ được Ma-ha Diễn, ví như sông Hằng không dung thọ được biển cả, vì nó nhỏ hẹp. Nhưng biển cả có thể dung thọ được các dòng sông, vì nó rộng lớn; Pháp Ma-ha Diễn cũng như thế, như kệ nói:

    "Ma-ha Diễn như biển cả,

    Tiểu thừa như nước lỗ chăn Trâu,

    Nhỏ không dung được to,

    Thí dụ kia cũng thế".


    Vì vậy, chúng Tiểu thừa không dung thọ được Bồ-tát.

    Hỏi: Sao gọi là Bồ-đề? Sao gọi là Tát-đỏa?

    Đáp: Bồ-đề gọi là đạo chư Phật, Tát-đỏa gọi là chúng sanh, hoặc gọi là đại tâm. Người ấy muốn được trọn cả công đức của Phật đạo, tâm kia không thể dứt, không thể phá; như núi Kim-cang, nên gọi là đại tâm, như kệ nói:

    "Hết thảy các Phật pháp,

    Trí tuệ và giới định,

    Làm lợi ích tất cả,

    Ấy gọi là Bồ-đề.

    Tâm kia không lay động,

    Hay nhẫn, thành việc đạo,

    Không dứt cũng không phá,

    Tâm ấy gọi Tát-đỏa".


    Lại nữa, xưng tán hảo pháp là "tát", thể tướng của hảo pháp gọi là "đỏa". Vì tâm Bồ-tát tự lợi lợi tha, vì độ hết thảy chúng sanh, vì biết thật tánh hết thảy pháp, vì hành đạo Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề, vì được hết thảy Hiền thánh tán thán; ấy gọi là Bồ-đề Tát-đỏa, vì cớ sao? Vì trong hết thảy pháp, Phật pháp là bậc nhất. Bồ-tát muốn đạt được pháp ấy, nên được Hiền thánh tán thán.

    Lại nữa, người như thế vì giải thoát sanh già bệnh chết cho hết thảy chúng sanh, nên cầu Phật đạo, ấy gọi là Bồ-đề Tát-đỏa.

    Lại nữa, ba thứ đạo đều là Bồ-đề. Một là Phật đạo, hai là Thanh-văn đạo, ba là Bích-chi Phật đạo. Bích-chi Phật đạo, Thanh-văn đạo tuy được Bồ-đề mà không xưng là Bồ-đề, Bồ-đề ở trong công đức thuộc Phật đạo mới là Bồ-đề, ấy gọi là Bồ-đề Tát-đỏa.

    Hỏi: Ngang đâu trở lại gọi là Bồ-đề Tát-đỏa?

    Đáp: Có thệ nguyện lớn, tâm không thể lay động, tinh tiến không lùi, do ba việc ấy gọi là Bồ-đề Tát-đỏa.

    Lại nữa, có người nói: "Khi bắt đầu phát tâm, nguyện rằng: Ta sẽ làm Phật độ hết thảy chúng sanh". Từ đó trở đi gọi là Bồ-đề Tát-đỏa, như kệ nói:

    "Nếu khi mới phát tâm,

    Thế nguyện sẽ làm Phật,

    Đã qua khỏi thế gian,

    Đáng nhận đời cúng dường".


    Từ khi mới phát tâm cho đến đệ Cửu địa vô ngại, vào Kim-cang Tam muội, giữa khoảng trung gian đó gọi là Bồ-đề Tát-đỏa.

    Bồ-đề Tát-đỏa ấy có hai hạng: Thoái chuyển và bất thoái chuyển. Như hai hạng A-la-hán thối pháp và bất thối pháp.

    Bồ-tát bất thoái chuyển gọi là thật Bồ-tát, vì có Bồ-tát thật, cho nên các Bồ-tát thoái chuyển đều chẳng gọi là Bồ-tát, ví như người chứng được bốn đạo quả gọi là thật Tăng, vì có Tăng thật, cho nên các người chưa đắc đạo đều chẳng gọi là thật Tăng.


    Bọt vỡ tan rồi!, Mộng dở dang ...

  10. #70
    Ban Điều Hành Avatar của hoatihon
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.150
    Thanks
    1.129
    Thanked 1.675 Times in 683 Posts
    ĐẠI TRÍ ĐỘ LUẬN
    Tập 1 _ Cuốn 4 _ Chương 7 _ GIẢI THÍCH: BỒ TÁT
    __________________________________________________ ______________________________________


    Hỏi: Sao biết Bồ-tát ấy là thoái chuyển và bất thoái chuyển?

    Đáp: Phẩm A-bệ-bạt-trí trong Kinh Bát-nhã Ba-la-mật, Phật tự thuyết tướng như vậy là thoái chuyển, tướng như vậy là bất thoái chuyển.

    Lại nữa, nếu Bồ-tát chỉ với một pháp mà khéo tu khéo niệm, ấy gọi là A-bệ-bạt-trí Bồ-tát. Một pháp gì? Đó là thường nhất tâm, nhóm các thiện pháp. Như nói các đức Phật do thường nhất tâm nhóm các thiện pháp mà chứng được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.

    Lại nữa, có Bồ-tát chỉ được một pháp, là tướng bất thoái chuyển. Một pháp gì? Đó là chánh trực tinh tiến. Như Phật hỏi A-nan: "A-nan! Thầy tinh tiến chăng?"

    _ Đúng vậy, bạch Thế Tôn!

    _ A-Nan! Thầy tán thán tinh tiến chăng?

    _ Đúng vậy, đấng Thiện tuệ!

    _ A-Nan! thường hành, thường tu, thường niệm tinh tiến cho đến khiến cho người đắc Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Như trong đó nói rộng vậy.

    Lại nữa, nếu được hai pháp, khi ấy là tướng bất thoái chuyển. Hai pháp gì? Thật biết hết thảy pháp là Không và cũng niệm nghĩ, không bỏ tất cả chúng sanh. Người như vậy gọi là Bồ-tát bất thoái chuyển.

    Lại nữa, được ba pháp: Một là nhất tâm nguyện muốn thành Phật đạo, như Kim-cương không thể lay động , không thể phá hoại. Hai là đối với hết thảy chúng sanh, có tâm từ bi, khắc vào xương tủy. Ba là được Bát-nhã Tam muội thấy được chư Phật hiện tại. Lúc ấy gọi là Bồ-tát bất thoái chuyển.

    Lại nữa, trong A-tỳ-đàm, chúng đệ tử của Ca-chiên Diễn-ni tử (Katya-niputra) nói: "Sao gọi là Bồ-tát? Tự giác lại có thể giác tha, ấy gọi là Bồ-tát. Chắc chắn sẽ làm Phật, ấy gọi là Bồ-tát. Bồ-đề là trí tuệ của người lậu tận; người ấy từ trí tuệ mà sanh ra, được người trí tuệ hộ niệm, được người trí tuệ cúng dường, ấy gọi là Bồ-tát.

    Lại nói: "Phát tâm bất thoái chuyển, từ đó về sau gọi là Bồ-tát".

    Lại nói: "Nếu xa lìa năm pháp, được năm pháp, ấy gọi là Bồ-tát". Năm pháp là gì? Lìa ba đường ác, thường sanh vào loài Trời và loài người. Lìa nghèo cùng hạ tiện, thường được tôn quý. Lìa khỏi tướng phi nam, thường được thân nam tử. Lìa khỏi thân hình tàn khuyết thô lậu, các căn đầy đủ. Lìa bỏ tánh hay quên, thường nhớ Túc mạng. Được trí tuệ Túc mạng ấy, thường lìa hết thảy các pháp ác, xa bỏ người ác, thường cầu đạo pháp, nhiếp thủ đệ tử, như vậy gọi là Bồ-tát.

    Lại nữa, từ khi gieo nghiệp cho ba mươi hai tướng trở đi, ấy gọi là Bồ-tát.

    Hỏi: Lúc nào gieo trồng nghiệp làm nhân duyên cho ba mươi hai tướng?

    Đáp: Qua khỏi ba A-tăng-kỳ kiếp, vậy sau mới trồng nghiệp nhân duyên cho ba mươi hai tướng.

    Hỏi: Thời gian bao lâu gọi là A-tăng-kỳ vô số kiếp?

    Đáp: Cực số mà những kẻ biết toán số trong hàng Nhân Thiên không thể biết được, ấy gọi là một A-tăng-kỳ. Như một với một gọi là hai, hai với hai là bốn, ba lần ba là chín, mười lần mười là trăm, mười lần trăm là nghìn, mười lần nghìn là vạn, ngàn lần vạn là ức, ngàn vạn ức gọi là Na-do-tha, ngàn vạn Na-do-tha là Tần-bà (Bimbara), ngàn vạn Tần-bà gọi là Ca-tha (Gata), quá Ca-tha gọi là A-tăng-kỳ. Như vậy, trong số ba A-tăng-kỳ, nếu tu hành hết một A-tăng-kỳ, thì tu A-tăng-kỳ thứ hai; tu hết A-tăng-kỳ thứ hai, thì tu A-tăng-kỳ thứ ba. Ví như phép toán số, đếm từ một đến trăm, đếm trăm xong trở lại từ một. Như vậy Bồ-tát qua một A-tăng-kỳ, rồi trở lại kể từ một khởi đi. Trong A-tăng-kỳ đầu, tâm không tự biết ta sẽ thành Phật hay không thành Phật. Trong A-tăng-kỳ hai, tâm tuy biết được ta chắc chắn thành Phật, nhưng miệng không nói "ta sẽ thành Phật". Trong A-tăng-kỳ ba, tâm tự biết rõ ràng sẽ thành Phật, miệng tự phát ngôn không chút sợ: "Ta trong đời sau sẽ thành Phật".

    Phật Thích-ca Văn, kể từ Phật Thích-ca Văn quá khứ đến Phật Lặc-na Thi-khí (Ratnasíkhin) là A-tăng-kỳ đầu. Trong khoảng ấy Bồ-tát vĩnh viễn xa lìa thân mỹ nhân. Từ Phật Lặc-na Thi-khí đến Phật Nhiên-đăng (Dipsạmkara) là A-tăng-kỳ thứ hai. Trong khoảng ấy, Bồ-tát cúng dường Phật Nhiên-đăng bảy cành Hoa sen, trải áo da nai, trải tóc lên đống bùn để lót đường cho Phật đi qua; Phật Nhiên-đăng liền thọ ký cho Bồ-tát: "Ông tương lai sẽ thành Phật hiệu Thích-ca Mâu-ni".

    Từ Phật Nhiên-đăng đến Phật Tỳ-bà-thi, là A-tăng-kỳ thứ ba. Nếu qua khỏi ba A-tăng-kỳ kiếp, lúc ấy là lúc Bồ-tát gieo trồng nghiệp làm nhân duyên cho ba mươi hai tướng.


    Bọt vỡ tan rồi!, Mộng dở dang ...

Thông tin chủ đề

Users Browsing this Thread

Hiện có 6 người đọc bài này. (0 thành viên và 6 khách)

Quyền viết bài

  • Bạn không thể gửi chủ đề mới
  • Bạn không thể gửi trả lời
  • Bạn không thể gửi file đính kèm
  • Bạn không thể sửa bài viết của mình
  •