DIỄN ĐÀN PHẬT PHÁP THỰC HÀNH - Powered by vBulletin




Cùng nhau tu học Phật pháp - Hành trình Chân lý !            Hướng chúng sinh đi, hướng chúng sinh đi, để làm Phật sự không đối đãi.


Tánh Chúng sinh cùng Phật Quốc chỉ một,
Tướng Bồ Đề hóa Liên hoa muôn vạn.

Trang 2/35 ĐầuĐầu 123412 ... CuốiCuối
Hiện kết quả từ 11 tới 20 của 341
  1. #11
    Ban Điều Hành Avatar của hoatihon
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.150
    Thanks
    1.129
    Thanked 1.675 Times in 683 Posts
    ĐẠI TRÍ ĐỘ LUẬN
    Tập 1 _ Cuốn 1 _ Duyên Khởi Luận
    __________________________________________________ ______________________________________


    Trong ba bài kệ này, Phật nói tướng trạng của Đệ nhất nghĩa Tất-đàn, rằng chúng sanh trong thế gian tự nương kiến chấp, tự nương pháp, tự nương hý luận của mình mà sanh ra cạnh tranh. Hý luận chính là gốc cạnh tranh, mà hý luận thì nương các kiến chấp sanh khởi, như kệ nói:

    "Có lãnh thọ pháp, mới có luận,

    Không lãnh thọ pháp, luận cái gì.

    Các kiến có, không có lãnh thọ,

    Điều ấy, người này đã trừ sạch".


    Hành giả như thật biết được điều ấy, thì đối hết thảy pháp, hết thảy hý luận, không lãnh thọ, không chấp trước, không thấy là thật, không cùng cạnh tranh với kẻ khác, và biết được vị cam lồ của Phật pháp. Nếu không được thế, tức là hủy báng Pháp. Nếu không lãnh thọ pháp của kẻ khác, không biết không nhận lấy, ấy là người vô trí. Như vậy thời những người có hý luận đều là người vô trí, tại sao vậy? Vì mỗi người không chịu lãnh thọ pháp của nhau, như có người tự cho pháp của mình là đệ nhất chơn thật thanh tịnh; còn pháp của người khác là vọng ngữ, không thanh tịnh. Ví như pháp xử trị của thế gian, nào là hình phạt giết chém đủ thứ bất tịnh mà người thế gian tín thọ làm theo cho là thật thanh tịnh, nhưng đối với người xuất gia thánh thiện thì đó là điều rất bất tịnh. Những người xuất gia theo ngoại đạo, sống theo pháp tu ngũ nhiệt đứng một chân, nhổ tóc v.v… hạng Ni-kiền-tử (Nirgranthaputra) cho đó là diệu huệ; còn các người khác nói đó là pháp ngu si. Các pháp của hàng xuất gia ngoại đạo và Bà-la-môn bạch y như thế đó, họ đếu cho là tốt đẹp, ngoài ra là vọng ngữ.

    Trong Phật pháp đây cũng có Tỳ kheo Độc-tử bảo: "Như bốn đại hòa hợp có pháp con mắt, năm uẩn (ngũ chúng) hòa hợp có pháp con người". Trong luận A-tỳ-đàm của Độc-tử nói: "Năm uẩn không lìa con người, con người không lìa năm uẩn, không thể nói năm uẩn là con người (ngã) hay lìa năm uẩn là con người. Con người (nhân ngã) nhiếp thuộc vào pháp tạng thứ năm là bất khả thuyết pháp-tạng".

    Hàng Đạo-nhân phái Nhất-thiết-hữu (Bộ) thì nói: "Trong hết mọi thứ, trong hết mọi thời, trong hết mọi pháp môn, không thể tìm ra được con người, ví như lông Rùa, sừng Thỏ thường là không có. Lại nữa, mười tám giới, mười hai nhập, năm uẩn thật có tự tánh mà trong đó không có con người (ngã)".

    Lại trong Phật pháp, có hàng Phương quảng (Vaipulya) Đạo nhân nói: "Hết thảy pháp không sanh không diệt, không, không có gì cả, ví như lông Rùa, sừng Thỏ thường là không có".

    Hất thảy các hàng luận nghị như thế, tự giữ lấp pháp của mình, không nạp thọ pháp của người khác, rằng: "Đây mới là thật, ngoài ra đều là vọng ngữ". Nếu tự thọ lãnh lấy pháp của mình, tự cúng dường lấy pháp của mình, tự tu hành theo pháp của mình, các pháp người khác thì không thọ, không cúng dường, cho là sai quấy. Và nếu cho như vậy là thanh tịnh, được nghĩa lợi đệ nhất, thời tất cả không có gì không phải thanh tịnh, sao vậy? Vì tất cả những người kia đều thọ lảnh pháp của mình.


    Bọt vỡ tan rồi!, Mộng dở dang ...

  2. The Following 2 Users Say Thank You to hoatihon For This Useful Post:

    Thanh Mai (04-26-2018),Thanh Trúc (04-26-2018)

  3. #12
    Ban Điều Hành Avatar của hoatihon
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.150
    Thanks
    1.129
    Thanked 1.675 Times in 683 Posts
    ĐẠI TRÍ ĐỘ LUẬN
    Tập 1 _ Cuốn 1 _ Duyên Khởi Luận
    __________________________________________________ ______________________________________


    Hỏi: Nếu các kiến chấp là sai, thì Đệ nhất nghĩa Tất-đàn sao lại đúng?

    Đáp: Hết thảy đường ngôn ngữ dứt, chỗ tâm hành diệt, khắp nơi đều không chỗ dựa, không hiển thị các pháp, thật tướng các pháp không đầu, không giữa, không cuối, không tận, không phá hoại, ấy là Đệ nhất nghĩa Tất-đàn, như bài kệ ở trong Ma-ha Diễn nghĩa nói:

    "Ngôn ngữ không còn,

    Tâm hành cũng hết,

    Không sanh không diệt

    Pháp như Niết-bàn.

    Nói các hành xứ,

    Gọi thế gian pháp,

    Nói không hành xứ,

    Là Đệ nhất nghĩa.

    Hết thảy thật, hết thảy phi thật

    Và hết thảy thật, cùng phi thật.

    Hết thảy chẳng thật, chẳng không thật,

    Ấy gọi thật tướng của các pháp".


    Đệ nhất nghĩa Tất-đàn được nói đến trong các Kinh như vậy, nghĩa ấy rất sâu, khó thấy khó biết. Vì muốn nói nghĩa ấy, nên Phật thuyết Kinh Đại Bát-nhã Ba-la-mật.

    * Lại nữa, vì muốn cho các nhà đại luận nghị như ông Phạm-chí Trường Trão v.v… sanh lòng tin đối với Phât pháp nên Phật thuyết Kinh Đại Bát-nhã Ba-la-mật.

    Có vị Phạm-chí tên Trường Trão, lại có vị tên là Tiên-ni Bà-tha-cù đa-la, lại có vị tên là Tát-giá Ca-ma-kiện-đề, là những vị đại luận nghị của cõi Diêm-phù-đề, nói: "Hết thảy luận đều có thể phá, hết thảy lời nói đều có thể hoại, hết thảy lối chấp đều có thể lay chuyển, không có pháp chơn thật nào đáng tin đáng cung kính". Như trong Kinh Xá-lợi-phất Bản-mạt nói: "Cậu của Xá-lợi-phất tên là Đại Câu-hy-la cùng chị là Xá-lợi, luận nghị mà không bằng. Đại Câu-hy-la suy nghĩ: "Đây không phải sức của chị ta, chắc là bậc Trí giả trong bào thai gởi lời nơi miệng mẹ. Người này chưa sanh mà đã vậy, lớn lên sẽ ra sao?" Suy nghĩ xong, ông sanh tâm kiêu mạn; vì muốn học rộng các thứ luận nghị nên xuất gia làm Phạm-chí, đi vào nước Nam Thiên Trúc, bắt đầu đọc kinh thơ. Mọi người hỏi: "Chí ông muốn cầu gì, học tập kinh gì?" Trường Trão đáp: "Cả mười tám thứ kinh lớn đều muốn đọc hết". Mọi người nói: "Trọn cả đời ông còn không hiểu một thứ, huống chi hiểu hết?" Trường Trão tự nghĩ: "Trước kia vì kiêu mạn nên thua chị, nay lại bị các người này khinh nhục". Vì hai chuyện này nên tự thề rằng: "Ta không cắt móng tay, cần phải đọc hết mười tám thứ đại kinh". Mọi người nhân thấy móng tay dài mà gọi ông là Phạm-chí Trường Trão. Ông dùng trí tuệ của đủ thứ kinh sách, đủ thứ lời châm chích rằng: "Đây là pháp, đây là phi pháp, đây là phải, đây là không phải, đây là thật, đây là không thật, đây là có, đây là không để phá luận nghị của người khác. Ví như voi cuồng, sức lớn đường đột dày xéo, không ai chế ngự được.


    Bọt vỡ tan rồi!, Mộng dở dang ...

  4. #13
    Ban Điều Hành Avatar của hoatihon
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.150
    Thanks
    1.129
    Thanked 1.675 Times in 683 Posts
    ĐẠI TRÍ ĐỘ LUẬN
    Tập 1 _ Cuốn 1 _ Duyên Khởi Luận
    __________________________________________________ ______________________________________


    Sau khi Phạm-chí Trường Trão dùng sức luận nghị như vậy dẹp phá các luận sư xong, trở về nơi sinh quán là thôn Na-la trong thành Vương-xá nước Ma-già-đà, hỏi người ta rằng: "Đứa con của chị tôi sanh ra nay nó ở đâu?" Có người trả lời: "Con của chị ông sinh ra, vừa mới 8 tuổi đã học hết các thứ Kinh sách, đến 16 tuổi thì luận nghị hơn cả mọi người. Có đạo nhân Thích chủng họ Cù-đàm, con của chị ông theo làm đệ tử của vị ấy". Trường Trão nghe thế liền khởi kiêu mạn, sanh lòng không tin, nói rằng: "Đứa con của chị ta thông mminh như thế, ông kia dùng thuật gì mà có thể đối hoặc để nó cạo tóc làm đệ tử được?!" Nói thế rối, đi ngay đến chỗ Phật.

    Bấy giờ Tôn-giả Xá-lợi-phất vừa thọ giới được nửa tháng, đang đứng hầu bên Phật, cầm quạt quạt Phật. Trường Trão Phạm-chí gặp Phật hỏi han xong, ngồi xuống một bên suy nghĩ rằng: "Mọi thứ luận nghị đều có thể bị phá, mọi lời nói đều có thể bị hoại, mọi thứ chấp thủ đều có thể bị lay chuyển. Vậy trong đó cái gì là thật tướng của các pháp? Cái gì là đệ nhất nghĩa? Cái gì là tánh? Cái gì là tướng? Không điên đảo?" Suy nghĩ như vầy: "Như nước biển lớn, mà muốn đến tận đáy nó, tìm cầu đã lâu mà chẳng được một pháp nào thật để có thể nhập tâm. Vậy ông ấy dùng luận nghị gì mà có thể lôi được con của chị ta?" Suy nghĩ xong, Trường Trão liền nói với Phật rằng: "Này ông Cù Đàm! Hết thảy các pháp ta đều không thọ nhận". Phật hỏi Trường Trão: " Hết thảy các pháp ông đều không thọ nhận, vậy cái kiến chấp (hết thảy đều không thọ nhận) ấy, ông có thọ nhận không?" Phật gạn hỏi câu đó có nghĩa: "Ông đã uống vào độc tà kiến, nay tuôn ra độc khí, nói rằng: Hết thảy pháp ta đều không thọ nhận, vậy cái kiến chấp (quan điểm) đó, ông có thọ nhận không?"

    Bấy giờ Trường Trão Phạm-chí như ngựa hay vừa thấy bóng roi là biết sợ và chạy theo đường chánh. Trường Trão Phạm-chí cũng thế, nghe lời nói của Phật như bóng roi đi vào tâm, liền vứt bỏ cống cao, hổ thẹn cúi đầu, suy nghĩ như vầy: "Phật đặt ta vào hai cửa thua. Nếu ta nói là thọ nhận, thì đây là cửa thua rõ rệt, nếu nhiều người biết, họ sẽ nói: Tại sao tự nói hết thảy pháp ta đều không thọ nhận, nay lại nói kiến chấp đó ta thọ nhận? Rõ ràng là nói dối, đó là cửa thua rõ rệt bị nhiều người biết. Cửa thua thứ hai tế nhị hơn, vì nói ta đều không thọ nhận thì không mấy người biết". Trường Trão suy nghĩ vậy rồi đáp lại Phật: "Cù Đàm! Hết thảy pháp ta không thọ nhận, kiến chấp này cũng không thọ nhận". Phật bảo: "Phạm-chí, ông không thọ nhận hết thảy pháp, kiến chấp ấy cũng không thọ nhận. Không thọ nhận gì cả thì có gì khác với mọi người đâu, cần gì cống cao mà sanh kiêu mạn?" Hỏi như vậy, Trường Trão Phạm-chí không thể đáp được, tự biết mình đã rơi vào chỗ thua, liền sanh khởi tín tâm, cung kính đối với Nhất thiết trí của Phật, tự nghĩ rằng: "Ta bị thua mà Thế Tôn không nêu bày chỗ thua của ta, không nói phải quấy, không để ý. Tâm Phật nhu nhuyến thanh tịnh bậc nhất. Tất cả ngôn ngữ luận nghị đã dứt, được đại pháp thậm thâm. Ngài là bậc đáng cung kính, tâm thanh tịnh bậc nhất, không ai hơn Phật". Vì Phật thuyết pháp dứt tà kiến của ông, ông liền ngay tại chỗ ngồi xa lìa trần cấu, đối với các pháp được con mắt thanh tịnh.

    Bấy giờ Xá-lợi-phất nghe những lời ấy, chứng được A-la-hán. Trường Trão Phạm-chí bèn xuất gia làm Sa-môn, chứng được A-la-hán có đại oai lực. Nếu Trường Trão Phạm-chí không nghe hơi hám của Bát-nhã Ba-la-mật là pháp tương ưng đệ nhất nghĩa lìa bốn câu, thì chút lòng tin còn không có huống gì chứng được đạo quả của bậc xuất gia? Phật vì muốn dắt dẫn hạng người đại luận nghị sư lợi căn như thế, nên thuyết Kinh Đại Bát-nhã Ba-la-mật-đa này.

    * Lại nữa, các đức Phật có hai cách thuyết pháp: Một là Quán tâm người nghe rồi tùy căn cơ có thể hóa độ, hai là quán tướng các pháp. Nay Phật muốn nói thật tướng của các pháp nên thuyết Kinh Đại Bát-nhã Ba-la-mật. Như trong phẩm thuyết về "Tướng bất tướng", các vị Thiên tử hỏi Phật: " Bát-nhã Ba-la-mật này sâu xa, làm sao mà tác thành tướng?" Phật dạy các Thiên tử: "Không tức là tướng, vô tướng, vô tác tướng, vô sanh diệt tướng, vô hành tướng, thường bất sanh tướng, như tánh tướng, tịch diệt tướng v.v…"


    Bọt vỡ tan rồi!, Mộng dở dang ...

  5. #14
    Ban Điều Hành Avatar của hoatihon
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.150
    Thanks
    1.129
    Thanked 1.675 Times in 683 Posts
    ĐẠI TRÍ ĐỘ LUẬN
    Tập 1 _ Cuốn 1 _ Duyên Khởi Luận
    __________________________________________________ ______________________________________


    * Lại nữa, có hai cách thuyết pháp: Một là có chỗ tranh cãi, hai là không chỗ tranh cãi. Có chỗ tranh cãi như trong các Kinh khác đã nói, nay muốn nói chỗ không tranh cãi, cho nên thuyết Kinh Đại Bát-nhã Ba-la-mật. Có tướng, không tướng, có vật, không vật, có y cứ, không y cứ, có đối, không đối, có trên, không trên; thế giới, phi thế giới; những pháp môn hai phần cũng thế.

    Hỏi: Phật tâm đại từ bi thì chỉ nên nói pháp không tranh cãi, cớ sao lại nói pháp có tranh cãi?

    Đáp: Pháp không tranh cãi đều là vô tướng, thường tịch diệt, bất khả thuyết. Nay nói bố thí và các pháp vô thường, khổ, không v.v… đều là vì tịch diệt, không vì hý luận mà thuyết. Những người lợi căn biết ý Phật không khởi lên sự tranh cãi; còn kẻ độn căn không biết ý Phật, chấp lấy tướng, trước lấy tâm, nên khởi lên sự tranh cãi, nên gọi là có tranh cãi. Bát-nhã Ba-la-mật này là "tính tốt ráo không" của các pháp, nên không có chỗ để tranh cãi. Nếu rốt ráo không mà có thể nắm, có thể tranh cãi thời không gọi là rốt ráo không. Vì rốt ráo không thì có và không hai sự đều dứt, thế nên Bát-nhã Ba-la-mật gọi là chỗ không tranh cãi.

    * Lại nữa, trong các Kinh khác thường dùng ba lối để nói các pháp, đó là thiện, bất thiện và vô ký. Nay muốn nói các tướng các pháp chẳng phải thiện, chẳng phải bất thiện, chẳng phải vô ký, cho nên thuyết Kinh Đại Bát-nhã Ba-la-mật-đa.

    Pháp học, pháp vô học, pháp phi học phi vô học; pháp do kiến đế đoạn (kiến sở đoạn), pháp do tư duy đoạn (tu sở đoạn), pháp không đoạn (phi sở đoạn); pháp có thể thấy có đối ngại, pháp không thể thấy có đối ngại, pháp không thể thấy không đối ngại; pháp thượng trung hạ; pháp tiểu, đại, vô lượng. Như vậy pháp môn có ba phần cũng thế.

    * Lại nữa, trong các Kinh khác tùy theo căn cơ hàng Thanh-văn, Phật nói pháp Tứ niệm xứ, nơi đây Tỳ-kheo quán trong thân ba mươi sáu vật để trừ bệnh tham dục, quán ngoài thân, trong ngoài thân cũng như vậy. Nay vì muốn dùng lối khác để nói pháp Tứ niệm xứ, nên Phật thuyết Kinh Đại Bát-nhã Ba-la-mật, như nói: "Bồ-tát quán trong thân, với thân không sanh giác quán, không thấy có thân, vì là vô sở đắc. Như vậy quán ngoài thân, quán trong ngoài thân, với thân không sanh giác tưởng, là một việc rất khó. Ba niệm xứ Thọ, Tâm, Pháp cũng vậy. Như vậy những pháp môn có bốn phần như: Bốn Chánh cần, bốn Như ý túc, bốn Thiền, bốn Đế v.v… cũng đều như thế".

    * Lại nữa, trong các Kinh khác Phật nói năm uẩn (ngũ chúng) là vô thường, khổ, không, vô ngã. Nay vì muốn dùng lối nói khác về năm uẩn, nên thuyết Kinh Đại Bát-nhã Ba-la-mật. Như Phật bảo Ngài Tu-bồ-đề: "Bồ-Tát quán sắc là thường hành thì không hành Bát-nhã Ba-la-mật; quán thọ, tưởng, hành, thức là thường hành, thì không hành Bát-nhã Ba-la-mật; quán sắc là vô thường hành thì không hành Bát-nhã Ba-la-mật; quán thọ, tưởng, hành, thức là vô thường hành, thì không hành Bát-nhã Ba-la-mật. Như vậy các thứ năm pháp như: Năm thọ ấm, năm đạo v.v… cũng đều như thế.

    Ngoài ra các pháp môn sáu, bảy, tám cho đến vô lượng v.v… cũng đều như thế. Như Đại Bát-nhã Ba-la-mật vô lượng vô biên, nên nhân duyên thuyết Bát-nhã Ba-la-mật cũng vô lượng vô biên; việc này rất rộng.

    Nay đã lược nêu các nhân duyên thuyết Kinh Đại Bát-nhã Ba-la-mật xong.


    Bọt vỡ tan rồi!, Mộng dở dang ...

  6. #15
    Ban Điều Hành Avatar của hoatihon
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.150
    Thanks
    1.129
    Thanked 1.675 Times in 683 Posts
    ĐẠI TRÍ ĐỘ LUẬN
    Tập 1 _ Cuốn 1 _ Phẩm Tựa Đầu _ Chương 1
    __________________________________________________ ______________________________________



    PHẨM TỰA ĐẦU

    [Phẩm Tựa Đầu của kinh chia thành 46 chương để giải thích. Từ Chương I giải thích Như thị ngã văn : nhất thời ... đến Chương 46 giải thích Tin Trì]

    CHƯƠNG 1

    GIẢI THÍCH: NHƯ THỊ, NGÃ VĂN, NHẤT THỜI

    KINH: Như thị ngã văn : Nhất thời .....

    LUẬN: Hỏi: Kinh Phật vì sao bắt đầu bằng lời: "Như vậy" (Như thị) ?

    Đáp: Phật pháp như biển cả, có tin thì vào được, có trí thì qua được. Nghĩa của chữ "Như vậy" chính là TIN.

    Nếu người mà trong tâm có đức tin thanh tịnh, thì người ấy có thể vào được Phật pháp. Nếu không có tin thì người ấy không thể vào được Phật pháp. Không có tin thì nói việc ấy không "như vậy", ấy là tướng của bất tin. Người có tin thì nói việc ấy "như vậy". Ví như da Trâu chưa mềm thì không thể gấp xếp, người không có tin cũng vậy; ví như da Trâu đã mềm, có thể tùy chỗ mà dùng mà làm, người có tin cũng vậy.

    Lại nữa trong Kinh nói Tin là cánh tay. Cũng như người có cánh tay đi vào trong núi báu, tự tại lấy báu, nếu người không có cánh tay thì không lấy được gì. Người có Tin cũng như vậy, vào trong núi báu Phật pháp có đủ thứ Vô lậu căn, Vô lậu lực, Thất giác chỉ, Bát chánh đạo, Tứ thiền, Tứ định, tự tại thu lấy. Người không có Tin cũng như không có cánh tay. Người không có cánh tay vào trong núi báu không thể thu lấy được gì. Người không có Tin cũng vậy, vào trong núi báu Phật pháp không thu lấy được gì. Phật tự nghĩ: "Nếu người có Tin, người ấy có thể vào trong biển pháp rộng lớn của Ta, có thể chứng được bốn quả Sa-môn, không uổng công cạo đầu mặc áo Ca-sa. Nếu không Tin, thì người ấy không thể vào trong biển pháp của Ta, cũng như cây khô không thể sanh hoa quả. Không chứng được quả Sa-môn, tuy có cạo đầu mặc áo Ca-sa, tụng nhiều thứ Kinh, giỏi vấn nạn, khéo giải đáp đi nữa thì ở trong Phật pháp chỉ uổng công chẳng có được gì". Cho nên nghĩa "Như vậy" là bước đầu đi vào Phật pháp, vì là tướng của thiện Tin vậy.

    Lại nữa, Phật pháp sâu xa, chỉ có Phật mới biết được. Người có Tin, tuy chưa làm Phật mà do Tin lực có thể vào được Phật pháp, như Phạm-thiên vương khi thỉnh Phật bắt đầu quay bánh xe Chánh pháp, đọc bài kệ thỉnh Phật:

    "Diêm-Phù-đề đã sanh.

    Nhiều thứ pháp bất tịnh.

    Xin mở cửa Cam lồ.

    Mà chỉ đường thanh tịnh!"

    Phật đáp:

    "Pháp ta rất khó hiểu

    Dứt được các kiết sử.

    Tâm ưa dăm ba cõi.

    Kẻ ấy không tỏ được"



    Bọt vỡ tan rồi!, Mộng dở dang ...

  7. #16
    Ban Điều Hành Avatar của hoatihon
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.150
    Thanks
    1.129
    Thanked 1.675 Times in 683 Posts
    ĐẠI TRÍ ĐỘ LUẬN
    Tập 1 _ Cuốn 1 _ Phẩm Tựa Đầu _ Chương 1
    __________________________________________________ ______________________________________


    Phạm-thiên vương bạch Phật: "Bạch đại đức Thế Tôn! Trong thế giới, tâm trí có thượng, trung, hạ. Kẻ khéo trực tâm nhu nhuyến, dễ được độ thoát, hạng người ấy nếu không được nghe Chánh pháp, họ sẽ rớt lại trong các ác nạn. Ví như hoa sen trong nước, có thứ mới sanh, có thứ già, có thứ chưa lên khỏi mặt nước, nếu không gặp được ánh sáng mặt trời thời không nở được. Phật cũng như ánh sáng mặt trời, vì tâm đại Từ-bi thương xót chúng sanh, nên Phật hãy vì họ mà thuyết pháp". Phật nghĩ: "Phép của chư Phật trong ba đời: Quá khứ, vị lai và hiện tại là đều vì độ chúng sanh mà thuyết pháp. Ta cũng nên như thế". Tư duy như vậy rồi, Phật nhận lời của chư Thiên Phạm-thiên vương mà thuyết pháp, dùng kệ đáp:

    "Ta nay mở cửa Cam lồ vị.

    Nếu người có tin hãy vui mừng

    Ở trong loài người nói Diệu pháp

    Chẳng phải não loạn ai mà thuyết".


    Trong bài kệ này, Phật không nói người bố thí được vui mừng, cũng không nói người đa văn, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ được vui mừng, mà chỉ nói người Tin (được vui mừng) . Ý Phật: Như vậy pháp của Ta thậm thâm vi diệu bậc nhất, là pháp vô sở đắc, không thể lường, không thể đếm, không thể nghĩ bàn, không động, không tựa; không vướng mắc, không là bậc Nhất thiết trí thì không thể hiểu. Cho nên, trong Phật pháp lấy Tin lực làm bước đầu. Do sức Tin được vào, không phải do bố thí, trì giới v.v… mà có thể bắt đầu vào được Phật pháp, như kệ nói:

    "Người thế gian, tâm động,

    Ưa đắm quả phước báo,

    Mà không ưa nhận phước,

    Cầu có, không cầu diệt,

    Trước nghe pháp Tà kiến

    Tâm đắm mà thâm nhập

    Pháp sâu xa của Ta,

    Không Tin làm sao hiểu!"


    Như đại đệ tử của Đề-bà-đạt tên Câu-ca-ly, vì không Tin pháp nên đọa trong đường ác. Người ấy không Tin, đối với Phật pháp tự đem trí tuệ để mong cầu, không thể được, vì cớ sao? Vì Phật pháp rất sâu vậy. Như Phạm-thiên vương dạy Câu-ca-ly với kệ:

    "Muốn lường pháp vô lượng,

    Kẻ trí há lường sao?

    Muốn lường pháp vô lượng,

    Kẻ ấy tự che lấp".


    Lại nữa, nghĩa của "Như vậy" là, nếu người có tâm khéo trực Tin, người ấy có thể nghe pháp, nếu không có tướng như thế thì không hiểu được, như nói:

    "Chăm chú nghe pháp như khát uống.

    Nhất tâm đi vào trong ngữ, nghĩa.

    Nhảy nhót nghe pháp tâm bi, hỷ,

    Người như vậy nên vì họ nói".



    Bọt vỡ tan rồi!, Mộng dở dang ...

  8. #17
    Ban Điều Hành Avatar của hoatihon
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.150
    Thanks
    1.129
    Thanked 1.675 Times in 683 Posts
    ĐẠI TRÍ ĐỘ LUẬN
    Tập 1 _ Cuốn 1 _ Phẩm Tựa Đầu _ Chương 1
    __________________________________________________ ______________________________________


    Lại nữa, trong nghĩa của "Như vậy" là : bước đầu đi vào Phật pháp, lợi trong đời này, lợi trong đời sau, lợi về Niết-bàn, các điều lợi đều lấy Tin làm căn bản và sức mạnh.

    Lại nữa, các hàng Ngoại đạo xuất gia, tâm cứ nghĩ cho pháp của mình là vinh diệu, thanh tịnh bậc nhất. Những người như thế, tự khen pháp hành của mình mà chê bai pháp của người khác. Thế nên đời này đấu tranh lẫn nhau, đời sau bị đọa Địa ngục, thọ đủ thứ khổ vô lượng, như kệ nói:

    "Vì ai nhiễm pháp mình,

    Chê bai pháp người khác

    Tuy là người trì giới,

    Không khỏi khổ Địa ngục".


    Trong Phật pháp đây, vứt bỏ hết thảy ái, hết thảy kiến chấp, hết thảy tâm kiêu mạn, tự ngã; hết thảy đều dứt bỏ, không vướng mắc. Như trong Kinh Phiệt Dụ nói: "Các ngươi nên hiểu pháp Ta như là chiếc bè, thì bấy giờ Thiện pháp còn nên bỏ huống là Bất thiện pháp? Với Bát-nhã Ba-la-mật mà Phật còn không niệm tới, không tựa vào, huống là với pháp khác mà có niệm tới, có tựa vào sao? Vì vậy, nên bước đầu của Phật pháp gọi là "Như vậy". Ý Phật như vầy: Đệ tử của Ta không ái trước vào pháp, không nhiễm trước vào pháp, không bạn đảng với pháp, mà chỉ cầu lìa khổ, được giải thoát, không hý luận vào các pháp tướng", như trong kinh A-bà-đà-kỳ (Arthavargìya sutra), Ma-kiền-đề (Makandika) nói kệ hỏi:

    "Với các pháp cố định.

    Thì sanh lắm vọng tưởng.

    Dứt bỏ hết trong ngoài,

    Thì làm sao đắc đạo?"


    Phật đáp:

    "Chẳng kiến, văn, giác, tri,

    Cũng chẳng do trì giới,

    Chẳng không phải kiến văn,

    Chẳng không do trì giới.

    Luận như thế bỏ hết.

    Cũng bỏ ngã, ngã sở.

    Không thủ các pháp tướng

    Như thế mới đắc đạo".


    Ma-kiền-đề lại hỏi:

    " Nếu không do kiến văn,

    Chẳng phải do trì giới.

    Chẳng phải không kiến văn,

    Chẳng phải không trì giới.

    Như tâm tôi quán sát.

    Giữ câm lặng, đắc đạo?"


    Phật đáp:

    "Ông theo nẻo tà kiến,

    Ta biết ông dốt đạo,

    Ông không thấy vọng tưởng,

    Ông bấy giờ tự câm!".


    Lại nữa, tự cho pháp ta chơn thật, còn pháp người khác là nói dối, pháp của ta bậc nhất, còn pháp của người khác không thật; đó là gốc của đấu tranh. Nay nghĩa "Như vậy" là dạy người khác không tranh. Nghe những gì người khác nói, người nói thì không lỗi. Vì vậy, các kinh Phật đều mở đầu bằng lời "Như vậy".

    Lược nói chữ nghĩa"Như vậy" xong.


    Bọt vỡ tan rồi!, Mộng dở dang ...

  9. #18
    Ban Điều Hành Avatar của hoatihon
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.150
    Thanks
    1.129
    Thanked 1.675 Times in 683 Posts
    ĐẠI TRÍ ĐỘ LUẬN
    Tập 1 _ Cuốn 1 _ Phẩm Tựa Đầu _ Chương 1
    __________________________________________________ ______________________________________


    Nay sẽ nói đến nghĩa chữ "Tôi".

    Hỏi: Nếu trong Phật pháp nói hết thảy pháp đều không, hết thảy không có tự ngã, thế tại sao Kinh Phật lại bắt đầu bằng lời: "Như vậy tôi nghe"?

    Đáp: Đệ tử của Phật tuy hiểu là vô ngã, song tùy theo pháp thế tục mà nói ngã, chẳng phải thật ngã. Ví như lấy tiền vàng mà mua tiền đồng, không ai cười vậy, vì cớ sao? Vì phép bán mua là vậy. Đây nói" "Tôi" cũng như thế, trong pháp Vô ngã mà nói Ngã, là thuận tùy theo thế tục mà không nên nạn vấn, như trong Kinh Thiên Vấn có kệ:

    "Có Tỳ-kheo La-hán.

    Các lậu đã dứt sạch.

    Với thân cuối cùng ấy,

    Nói "Tôi đây" được chăng?"

    Phật đáp:

    "Có Tỳ-kheo La-hán,

    Các lậu đã dứt sạch,

    Với thân cuối cùng ấy,

    Có thể nói "Tôi đây".


    Trong Thế giới Pháp (Thế giới Tất-đàn) mà nói là ngã, chẳng phải là trong pháp Đệ nhất nghĩa (Đệ nhất nghĩa Tất-đàn). Vì vậy, đối với các pháp Không, Vô ngã mà nói Ngã, không có lỗi.

    Lại nữa, ngữ ngôn của thế giới có ba thứ căn bản: Một là tà kiến, hai là kiêu mạn, ba là danh tự. Trong đó hai thứ bất tịnh và một thứ tịnh. Hết thảy người phàm đều có ba thứ gốc ngôn ngữ: Là tà kiến, kiêu mạn và danh tự. Người tu hành thấy đạo thì có hai thứ gốc ngôn ngữ: Là kiêu mạn, danh tự; còn các bậc đã dứt hết lậu hoặc thì chỉ một thứ gốc ngữ ngôn, là danh tự. Trong tâm họ tuy không trái với thật pháp, nhưng tùy thuận người trong thế giới mà truyền đạt chung gốc ngôn ngữ ấy, để trừ tà kiến cho đời, nên thuận theo thế tục mà không tranh cãi. Vì vậy, cho nên trừ hai gốc ngôn ngữ bất tịnh và theo thế tục mà chỉ chung một thứ ngôn ngữ. Đệ tử Phật tùy theo thế tục mà nói Ngã nên không có lỗi.

    Lại nữa, nếu người đắm vào tướng Vô ngã mà nói "đây là thật, ngoài ra đều vọng ngữ", thì với người ấy nên nạn rằng: "Ông nói hết thảy pháp thật tướng là Vô ngã, sao còn nói "Như vậy tôi nghe"? Còn nay các đệ tử Phật đối với hết thảy pháp Không, vô sở đắc, trong tâm họ không đắm trước, cũng không đắm trước thật tướng của các pháp, huống gì trong Vô ngã mà tâm còn đắm trước sao? Vì vậy không nên nạn rằng tại sao đệ tử Phật còn nói "Tôi", như bài kệ trong Trung luận nói:

    "Nếu có cái bất không.

    Tất phải có cái không.

    Bất không còn không có,

    Hà huống là có không?

    Phàm người thấy bất không.

    Mà cũng lại thấy không.

    Không thấy: Thấy, không thấy,

    Ấy thật là Niết-bàn.

    Cửa bất nhị an ổn.

    Phá trừ các tà kiến.

    Chỗ chư Phật đi qua,

    Ấy là pháp vô ngã".


    Lược nói nghĩa chữ "Tôi" xong.

    Nay sẽ nói nghĩa chữ "Nghe".


    Bọt vỡ tan rồi!, Mộng dở dang ...

  10. The Following 2 Users Say Thank You to hoatihon For This Useful Post:

    chimvacgoidan (04-29-2018),cunconmocoi (04-28-2018)

  11. #19
    Ban Điều Hành Avatar của hoatihon
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.150
    Thanks
    1.129
    Thanked 1.675 Times in 683 Posts
    ĐẠI TRÍ ĐỘ LUẬN
    Tập 1 _ Cuốn 1 _ Phẩm Tựa Đầu _ Chương 1
    __________________________________________________ ______________________________________


    Hỏi: "Nghe" như thế nào? Dùng nhĩ căn? dùng nhĩ thức? hay dùng ý thức nghe? Nếu nhĩ căn nghe, thì nhĩ căn không có giác tri không thể nghe? Nếu nhĩ thức nghe, thì nhĩ thức trong thoáng chốc, không thể phân biệt cũng không thể nghe? Nếu ý thức nghe, thì ý thức cũng không thể nghe, vì cớ sao? Vì trước do năm thức nhận biết năm trần, rồi sau ý thức mới nhận biết, ý thức không thể biết năm trần trong hiện tại mà chỉ nhận biết năm trần trong quá khứ và vị lai. Nếu ý thức nhận biết năm trần trong hiện tại thì người mù cũng có thể thấy sắc và người điếc cũng có thể nghe tiếng, vì sao? Vì ý thức không bị hư?

    Đáp: Chẳng phải nhĩ căn nghe tiếng, cũng chẳng phải nhĩ thức, cũng chẳng phải ý thức. Việc nghe tiếng đây là do nhiều nhân duyên hòa hiệp mới nghe được tiếng, không thể bảo một pháp có thể nghe tiếng, vì sao? Vì nhĩ căn không tri giác, không thể nghe tiếng, nhĩ thức là vô sắc, vô đối, vô xứ nên cũng không thể nghe tiếng, còn tiếng thì không có thức tri giác cũng không có căn cũng không thể biết được tiếng. Bấy giờ nhĩ căn không bị hư, tiếng ở chỗ có thể nghe và ý muốn nghe. Căn, trần và ý hòa hợp nên nhĩ thức phát sanh, tùy nhĩ thức liền sanh ý thức; có thể phân biệt các thứ nhân duyên mà được nghe tiếng. Vì thế không nên vấn nạn: "Nghe" như thế nào và ai nghe? Tuy nghe tiếng, mà trong Phật pháp không một pháp năng tác, năng kiến, năng tri, như kệ nói:

    "Có nghiệp cũng có quả.

    Không kẻ làm nghiệp quả.

    Nghĩa ấy sâu bậc nhất,

    Pháp này do Phật nói.

    Tuy không, chẳng phải đoạn.

    Tương tục, cũng chẳng thường.

    Tội phước vốn không mất,

    Pháp như vậy, Phật nói".

    Lược nói nghĩa chữ "Nghe" xong.

    Nay sẽ nói về chữ "Một".



    Bọt vỡ tan rồi!, Mộng dở dang ...

  12. The Following 2 Users Say Thank You to hoatihon For This Useful Post:

    chimvacgoidan (04-29-2018),cunconmocoi (04-28-2018)

  13. #20
    Ban Điều Hành Avatar của hoatihon
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.150
    Thanks
    1.129
    Thanked 1.675 Times in 683 Posts
    ĐẠI TRÍ ĐỘ LUẬN
    Tập 1 _ Cuốn 1 _ Phẩm Tựa Đầu _ Chương 1
    __________________________________________________ ______________________________________


    Hỏi: Trong Phật pháp không thật có những pháp số lượng, thời gian vì nó không thuộc vào ấm, nhập, giới sao lại nói là "Một" thời?

    u: Tùy theo thế tục mà nói có "Một" thời, không có lỗi. Như vẽ trên đất - cây làm thành tượng Trời, vì niệm tưởng Trời mà lễ bái nên không lỗi. Nói "Một" thời cũng như vậy. Tuy thật không có "Một" thời, mà tùy thế tục nói có "Một" thời nên không lỗi.

    Hỏi: Không nên nói không có "Một" thời, như Phật tự nói: "Một người xuất hiện trên thế gian, nhiều người được lợi lạc. Người đó là ai? Chính là Phật Thế Tôn vậy", như kệ nói:

    "Ta hành đạo không thấy bảo hộ.

    Chí hành đạo một mình không bè bạn.

    Tích chứa một hạnh mà thành Phật,

    Tự nhiên thấu suốt nẻo Thánh đạo"


    Ở nhiều chỗ Phật đã nói Một như thế, vậy tất phải có cái "Một".

    Lại nữa, vì có pháp Một hòa hợp, nên vật ấy gọi là Một. Nếu thật không có pháp Một thì cớ sao trong một vật chỉ một tâm sanh, không phải hai, không phải ba? Trong hai vật là hai tâm sanh, không phải một, không phải ba? Trong ba vật là ba tâm sanh, không phải hai, không phải một? Nếu thật không có các con số thì trong một vật nên có hai tâm sanh, trong hai vật chỉ nên một tâm sanh. Số ba, bốn, năm, sáu … cũng như thế. Do đó, biết chắc rằng trong một vật có pháp Một, vì pháp ấy hòa hợp nên trong Một vật chỉ Một tâm sanh?

    Đáp: Nếu Một với Vật là Một, hay Một với Vật là khác, cả hai đều sai lầm.

    Hỏi: Nếu là "Một" thì có sai lầm gì?

    Đáp: Nếu Một với cái bình là "Một", như Nhân-đề-lê (Thích-đề-hoà-nhơn - Indra) với Thích-ca (Saka) là Một. Nếu vậy thì ở đâu có Một tức ở đó đều có bình; cũng như ở đâu có Nhân-đề-lê là ở đó có Thích-ca. Nay các vật như áo v.v… đều phải là bình, vì Một với bình là "Một". Như vậy ở đâu có Một ở đó đều là bình. Giống như bình, áo v.v… đều là Một vật, không có phân biệt.

    Lại nữa, Một thuộc về "số", bình cũng ưng thuộc về "số". Thể của bình có năm pháp. Bình là vật có sắc chất có đối ngại, vậy Một cũng ưng có sắc chất, có đối ngại. Nếu ở đâu có Một mà không gọi là bình, thì nay không nên cho bình với Một là "Một". Hoặc nói Một không thu nhiếp bình, hoặc nói bình cũng ưng không thu nhiếp một, vì bình với Một không khác. Lại muốn nói Một phải nói bình, muốn nói bình phải nói Một, như thế thì lộn xộn.

    Hỏi: "Một" bị sai lầm như vậy, còn trong phương diện khác có lỗi gì?

    Đáp: Nếu Một khác với cái bình thì bình chẳng phải là Một, nếu bình khác với một thời Một chẳng phải bình. Nếu bình hợp với Một, mà bình được gọi làm Một, nay Một hợp với bình, sao không gọi Một là bình? Vì vậy không thể gọi bình và Một khác nhau.

    Hỏi: Tuy bình hợp với "Một" nên bình là Một (Một cái bình), nhưng số Một không phải là bình, thì sao?

    Đáp: Các số bắt đầu bằng số Một, Một với bình là khác nên bình không làm Một. Một không, nên nhiều cũng không, vì sao? Trước Một rồi sau mới nhiều. Như vậy, trong phương diện khác với bình, thì pháp "Một" cũng không thể có riêng được. Vì sao? Vì trong cả hai phương diện tìm pháp "Một" không thể được. Vì không thể được thì làm sao nói có pháp "Một" nhiếp thuộc vào năm ấm, mười tám giới, sáu nhập được?

    Nhưng đệ tử Phật tùy theo ngôn ngữ thế tục mà gọi là "Một", mà trong tâm thực không hề chấp trước, trái lại biết các con số chỉ có trên danh tự. Vì thế trong Phật pháp nói đến chữ "Một thời, Một người, Một thầy" mà không rơi vào lỗi tà kiến.

    Lược nói về "Một" xong.

    Nay sẽ nói về "Thời".


    Bọt vỡ tan rồi!, Mộng dở dang ...

  14. The Following 2 Users Say Thank You to hoatihon For This Useful Post:

    chimvacgoidan (04-29-2018),cunconmocoi (04-28-2018)

Thông tin chủ đề

Users Browsing this Thread

Hiện có 1 người đọc bài này. (0 thành viên và 1 khách)

Quyền viết bài

  • Bạn không thể gửi chủ đề mới
  • Bạn không thể gửi trả lời
  • Bạn không thể gửi file đính kèm
  • Bạn không thể sửa bài viết của mình
  •