Bài 93.
9. THIỀN SƯ NHƯ MÃN 如滿 CHÙA PHẬT QUANG, LẠC KINH.
(Từng trụ chùa Kim Các ở Ngũ Đài Sơn).
Vua Đường Thuận Tông (805) hỏi:
- Phật từ đâu đến, chết rồi về đâu? Đã nói thường trụ thế gian, Phật nay ở đâu?
Phật tùng hà phương lai, diệt hướng hà phương khứ ? Kí ngôn thường trụ thế, Phật kim tại hà xứ ?
佛從何方來滅向何方去? 既言常住世, 佛今在何處 ?
Sư đáp:
Phật từ vô vi đến, chết rồi về vô vi. Pháp thân đồng hư không, thường còn ở chỗ vô tâm, có niệm thì quy về vô niệm, có trụ thì quy về vô trụ, đến vì chúng sanh đến, đi vì chúng sanh mà đi. Biển chơn như thanh tịnh, thể trạm nhiên thường trụ. Người trí khéo suy lường, lại chớ sanh lo nghĩ ngờ vực.
Phật tùng vô vi lai, diệt hướng vô vi khứ. Pháp thân đẳng hư không, thường tại vô tâm xứ. Hữu niệm quy vô niệm, hữu trụ quy vô trụ. Lai vi chúng sinh lai, khứ vi chúng sinh khứ, thanh tịnh chân như hải, đam nhiên thể thường trụ. Trí giả thiện tư duy, canh vật sinh nghi lự.
佛從無為來, 滅向無為去. 法身等虛空, 常在無心處.有念歸無念, 有住歸無住. 來為眾生來, 去為眾生去.清淨真如海, 湛然體常住. 智者善思惟,更勿生疑慮.
Vua lại hỏi:
- Phật đãn sanh ở cung vua, chết dưới cây song lâm, trụ thế 49 năm, lại nói không có pháp để thuyết. Núi sông và đại hải, trời đất cùng nhật nguyệt đến lúc đều trở lại không thì nói cái gì chẳng sanh diệt? Nghi tình còn như thế, mong bậc trí giả khéo vì phân biệt cho.
Phật hướng vương cung sinh, diệt hướng song lâm diệt, trụ thế tứ thập cửu, hựu ngôn vô pháp thuyết. Sơn hà cập đại hải, thiên địa cập nhật nguyệt, thời chí giai quy tận, thùy ngôn bất sinh diệt, nghi tình do nhược tư, trí giả thiện phân biệt.
佛向王宮生, 滅向雙林滅, 住世四十九,又言無法說. 山河及大海, 天地及日月, 時至皆歸盡, 誰言不生滅, 疑情猶若斯, 智者善分別.
Sư đáp:
- Phật thể vốn vô vi, theo mê tình mà vọng phân biệt, pháp thân đồng hư không chưa từng có sanh diệt. Hữu duyên Phật xuất thế hết duyên Phật nhập diệt, giáo hóa chúng sanh khắp mọi nơi như trăng trong nước, chẳng phải thường cũng chẳng phải đoạn, chẳng phải sanh cũng chẳng phải diệt, sanh cũng chưa từng sanh, diệt cũng chưa từng diệt. Thấy rõ ràng chỗ vô tâm thì tự nhiên không có pháp để nói.
Phật thể bản vô vi, mê tình vọng phân biệt, pháp thân đẳng hư không, vị tằng hữu sinh diệt. Hữu duyên Phật xuất thế, vô duyên Phật nhập diệt, xứ xứ hoá chúng sinh, do như thuỷ trung nguyệt, phi thường diệc phi đoán, phi sinh diệc phi diệt. Sinh diệc vị tằng sinh, diệt diệc vị tằng diệt, liễu kiến vô tâm xứ, tự nhiên vô pháp thuyết.
佛體本無為, 迷情妄分別,法身等虛空, 未曾有生滅. 有緣佛出世, 無緣佛入滅, 處處化眾生, 猶如水中月,非常亦非斷, 非生亦非滅. 生亦未曾生, 滅亦未曾滅,了見無心處, 自然無法說.
Vua nghe xong rất vui mừng, càng kính trọng thiền tông.
*
* *
10. THIỀN SƯ ĐẠO MINH 道明NAM NGUYÊN, VIÊN CHÂU.
Sư thượng đường:
- Ngựa mau chóng một roi, người lanh lợi một lời (nhất ngôn). Hữu sự sao chẳng lộ đầu? Mỗi người tự vô sự. Trân trọng!
Sư bèn xuống tòa.
Có tăng hỏi:
- Một lời đó, ra sao?
Sư ngập ngừng đáp:
- Đợi ta có tướng lưỡi rộng dài (quảng trường thiệt tướng) sẽ nói với ông.
--------
Động Sơn đến tham kiến, vừa lên pháp đường. Sư nói:
- Thoạt nhìn đã biết.
Dĩ tướng khán liễu dã.
已相看了也.
Động Sơn liền đi xuống. Hôm sau Sơn lại lên, hỏi:
- Hôm qua nhờ ơn Hòa thượng từ bi, đại khái biết chỗ nào xin giúp cho, đâu là chỗ cái tướng của con biểu lộ ra ngoài?
Tạc nhật dĩ mông hòa thượng từ bi, đại tri thập ma xứ thị dữ, mỗ
giáp dĩ tướng khán xứ.
昨日已蒙和尚慈悲, 大知什麼處是與, 某甲已相看處.
Sư đáp:
- Tâm tâm không gián đoạn, hòa nhập vào tánh hải.
Tâm tâm vô gian đoán, lưu nhập ư tính hải.
心心無間斷, 流入於性海.
Động Sơn nói:
- Xin bỏ lỗi cho.
Kỉ phóng quá.
幾放過.
Động Sơn từ giã ra đi. Sư nói:
- Học nhiều Phật pháp, rộng làm việc lợi ích.
Động Sơn hỏi:
- Học nhiều Phật pháp thì không hỏi, thế nào là rộng làm việc lợi ích?
Sư đáp:
- Không bỏ một pháp nhỏ.
Nhất vật mạc vi tức thị.
一物莫違即是.
----------
Tăng hỏi:
- Thế nào là Phật?
Sư đáp:
- Không thể nói thế nào (là đúng) !
Bất khả đạo nhĩ thị dã.
不可道爾是也.

Trả lời với trích dẫn