Luận về Huyết Mạch Luận Bài 8
__________________________________________________ _____________________________________
Luận về Huyết Mạch Luận
Bài 8
-------------
佛不度佛。將心覓佛不識佛。但是外 佛者。盡是不識自心是佛。
Phật bất độ Phật. Tương tâm mịch Phật, bất thức Phật. Đãn thị ngoại mịch Phật giả, tận thị bất thức tự tâm thị Phật.
Phật không cứu độ Phật. Dùng tâm để tìm Phật, ấy là không rõ biết Phật. Nhưng ngoài tâm mà tìm Phật đều là những người không rõ biết tâm mình là Phật.
-------------
”Phật bất độ Phật”
Câu này thoạt nghe thì rất có lý, thường thì một người rơi xuống nước thì không thể tự nắm tóc mình kéo lên bờ được.
Nhưng nếu ta nghĩ rộng ra, thì câu này có thể sai :
1. _ Phật Thích Ca nói “Ta là Phật đã thành, chúng sinh là Phật sẽ thành”, vậy là đã có Phật (đã thành) cứu độ Phật (sẽ thành” rồi đó !
2. _ Thể Hóa Thân Phật có cứu độ chúng sinh vô minh _ vốn là những cái BÓNG của Phật hay không ? Có đó ! Tuồng Thiên Diễn là như thế đó !
“Tương tâm mịch Phật, bất thức Phật”. Ngày xưa Huệ Trung Thượng sĩ đã nói (với em gái đang là Hoàng Hậu) : “Anh không cầu làm Phật, Phật cũng chẳng cầu làm anh” Nói câu này chứng tỏ Thượng sĩ đã Giác Ngộ rằng “Bản Thể Tâm của mình vốn là Phật rồi !”.
Nhưng tất cả Phật tử đang xài cái Tâm Duyên Lự, nếu không dùng nó để tìm Phật, thì ở mãi trong “hầm sâu vô minh” hay sao ?
Nên chăng chúng ta nói như vầy : “Dùng Tâm Duyên Lự tìm cầu Phật (Giác Ngộ) nên lắm chứ, ngay cả khi đã “thức Phật” (kiến Tánh), cũng chưa phải đã thật sự “hết việc” đâu ! Vì tu Phật là phải tu mãi cho đến khi THỨC trở thành TRÍ _ tức là Giác Ngộ hoàn toàn.
“Nhưng ngoài tâm mà tìm Phật đều là những người không rõ biết tâm mình là Phật”. Nói thì nghe hay, nhưng tác giả đã không xác định được chữ TÂM này, nếu chỉ dòm vào bên trong (nội tâm) thì hành giả sẽ chỉ ghi nhận 2 trạng thái :
1) Dòng Ý thức lăng xăng, liên tục sinh diệt, như dòng nước chảy (bộc lưu). Trường hợp này dầu có ngồi rách mấy chục cái bồ đoàn cũng vẫn là Phàm Phu.
2) Trạng thái tĩnh tâm, tức là lúc Ý thức gần như dừng lại, đó là trạng thái Nhập Thiền, nghe im vắng; có thể lúc này sẽ có nhiều hiện tượng từ tiềm thức trổi dậy tạo ra những “Hiện tượng Thiền”. Nhưng Ý thức vẫn “sống nhăn” chẳng hề có “thấy” Bản Thể Tâm lúc này. (Thấy Bản Thể Tâm mới được gọi là Kiến Tánh). Trường hợp này có thể sinh Thiên, nếu không phạm lỗi nặng (như Đại Vọng Ngữ).
Phương pháp “đi cũng Thiền, ngồi cũng Thiền” hoặc phương pháp Thiền cười, mà Sư Ông Nhất Hạnh chủ trương chỉ là tạo điều kiện cho sự tĩnh tâm. Nhưng sự tĩnh tâm của Sư Ông hình như chưa bao giờ Nhập Thiền, (dẫu là Thiền Minh Sát) Sư Ông đã không hề nếm được một giọt Cam lồ nào của đạo Phật, cho nên Sư Ông đã dùng Tâm Duyên Lự (còn gọi là Tâm Phan Duyên) để suy đoán Giáo Lý đạo Phật, suy đoán ra “cái Niết Bàn duy Ý Thức”.
Không đâu, Niết Bàn của đạo Phật chỉ có khi vắng bóng Ý Thức, nếu có sự hiện diện của Ý Thức thì là Niết Bàn “dõm”.
Sư Ông đã nhầm khi cho rằng “nếu ta sống tỉnh táo, “cảm được cái hiện tại trong từng bước chân đi” là TA ĐÃ Ở TRONG NIẾT BÀN RỒI !”, “Niết Bàn là đây !” Cái Niết Bàn mà Sư Ông định danh chỉ là Niết Bàn của KHÁI NIỆM .
Trời ơi ! Kinh nói “Quá khứ tâm bất khả đắc, Hiện tại tâm bất khả đắc, Vị lai tâm bất khả đắc” Mà Sư Ông mấy chục năm thuyết giảng, lúc nào cũng chỉ cái Hiện tại Tâm, lấy đó làm Chân Tâm, rồi vọng ngôn rằng “đó là Niết bàn !”
(Chỉ là những tư tưởng nông cạn, con xin được nghe chỉ giáo thêm từ những vị cao nhân. Kính !)