50. Câu này trích dẫn từ Bát Nhã Ba La Mật là một tóm lại khúc chiết của ba thời chuyển bánh xe Pháp của đức Phật.
i. “Tâm” (Skt. chitta ; TT. sems) là phương diện mê lầm của tánh giác. Trong lần chuyển bánh xe Pháp thứ nhất, đức Phật dạy bốn chân lý : có sự khổ ; nguyên nhân của khổ là bản ngã với những thức tình tiêu cực của nó ; cái đối trị là con đường Phật giáo ; kết quả là sự dừng diệt của khổ.
ii. “Tâm không hiện hữu” ám chỉ bản tánh trống không. Trong lần chuyển bánh xe Pháp thứ hai, đức Phật dạy rằng tất cả mọi hiện tượng, gồm cả tâm thức, là vô tự tánh, không có hiện hữu nội tại.
iii. “Sự biểu lộ của nó là tánh sáng tỏ” ám chỉ phương diện sáng ngời và tỏ biết của tâm. Trong lần chuyển bánh xe Pháp thứ ba, đức Phật dạy rằng bản tánh trống không không phải là một cái không trơn mà thấm khắp bởi những phẩm tính trí huệ của Phật tánh.
Lần chuyển bánh xe Pháp thứ nhất nói đến chân lý tương đối của nhân quả, hay duyên sanh của các hiện tượng, vừa cả tâm lý lẫn vật lý ; lần thứ hai trong một số phương diện nói đến chân lý tuyệt đối và trong một số phương diện đến chân lý tương đối ; lần thứ ba nói về chân lý tuyệt đối.

51. Mười lực (TT. bang bcu) :
i. Năng lực trên đời sống.
ii. Năng lực trên tâm thức.
iii. Năng lực trên vật chất.
iv. Năng lực trên nghiệp.
v. Năng lực trên sự tái sanh.
vi. Năng lực của nguyện vọng.
vii. Năng lực của cầu nguyện.
viii. Năng lực của những phép lạ.
ix. Năng lực của trí huệ.
x. Năng lực của Pháp.
Mười năng lực này không nên bị lầm với mười sức mạnh (stobs bcu).

52. Làm chủ kho tàng bầu trời : ám chỉ khả năng vật chất hóa những đồ vật như bầu trời, theo những nhu cầu của chúng sanh ; đây là một trong những khả năng thuộc phạm trù năng lực trên vật chất (chú thích 51). Sự làm chủ trên những nguyên tố như vậy đi kèm theo sự chứng ngộ của một đại thiền giả.

53. Một lần một nạn đói khủng khiếp xảy ra ở xứ Magadha, kéo dài mười hai năm. Saraha yêu cầu Nagarjuna cung cấp cho chúng tăng của Nalanda đang thiếu mọi nhu yếu. Nagarjuna quyết định tìm ra cách làm vàng. Ngài hái hai lá trầm, và với những thần chú phù hợp, cho chúng năng lực chuyên chở ngài tức tốc đến nơi nào ngài muốn. Cầm một lá trên tay và dấu một lá kia dưới đế giày, ngài du hành qua đại dương đến một hòn đảo có một nhà luyện kim nổi tiếng. Nagarjuna xin nhà luyện kim chỉ dạy làm thế nào để làm ra vàng. Bấy giờ, nhà luyện kim hiểu rằng Nagarjuna phải băng qua đại dương bằng một kỹ thuật huyền thuật bí mật nào đó, và hy vọng có được bí mật ấy, ông nói, “Chúng ta nên chấp nhận trao đổi hoặc kỹ xảo hoặc sự giàu có của chúng ta.” Nagarjuna trả lời, “Chúng ta nên trao đổi kỹ xảo,” và cho ông cái lá cầm trong tay. Nhà luyện kim, nghĩ rằng Nagarjuna bây giờ không còn có thể ra khỏi đảo này, dạy cho ngài cách làm ra vàng. Nhưng khi đã học được bí mật của nhà luyện kim, ngài ra đi, bằng cái lá trầm dấu trong giày, và trở về Ấn Độ. Trở lại Nalanda, ngài có thể biến một số lượng lớn sắt thành vàng, và như vậy cung cấp cho Tăng chúng mọi nhu yếu của họ.