29. Cỏ Kusha : một loại cỏ có sợi nhỏ mềm ; Phật đã ngồi trên một tọa cụ làm bằng cỏ kusha vào lúc giác ngộ, và vì lý do đó nó có một ý nghĩa tượng trưng đặc biệt và thường được dùng trong nhiều nghi lễ Phật giáo.
30. Năm ngành tri thức, hay khoa học : ngôn ngữ học, luận lý học, thủ công, y học và triết học.
31. Samaya (TT. dam-tshig) : những cam kết và giới luật của Mật thừa, chúng tạo thành mối liên kết tối quan trọng giữa đệ tử và guru, bạn đồng tu và sự thực hành.
32. Guru Rinpoche : đạo sư vĩ đại Padmasambhava. Ngài và pandita Vimalamitra là hai vị thầy Ấn Độ vĩ đại và là đệ tử của Mật thừa được vua Trisong Detsen mời đến Tây Tạng vào thế kỷ thứ tám để thiết lập Phật Pháp ở đấy. Những tài năng và thần lực phi thường của các ngài, xuất phát từ sự thông thạo những tantra, tỏ ra cần thiết trong sự hàng phục những kháng cự và chướng ngại để truyền bá Phật pháp, những cái mà những vị thầy tốt nhất của Kinh điển Đại thừa trước đó đã không thể trục xuất.
33. Năm loại tri thức siêu nhiên :
i. Khả năng thực hiện những phép lạ.
ii. Thiên nhãn thông.
iii. Thiên nhĩ thông.
iv. Tha tâm thông.
v. Túc mạng thông (nhớ lại những đời trước).
34. Vòng chuỗi những biến cố tương thuộc (Skt. pratya-samutpada ; TT. rten-’brel) : ngọn thác những nhân và duyên phụ thuộc lẫn nhau khởi từ vô minh và qua chúng mà những hiện tượng tương đối sanh khởi.
35. Tám mối quan tâm thế gian : như Nagarjuna định nghĩa, chúng là được và mất, sướng và khổ, khen và chê, danh tiếng và vô danh.
36. Mantra : nghĩa đen, “cái bảo vệ cho tâm thức”. Có nhiều loại thần chú mantra. Những phạm trù chính yếu là những thần chú minh giác, những dharani, và mật chú, chúng lần lượt thuộc về phương tiện, trí huệ và tính chất bất nhị của phương tiện và trí huệ.
37. Mười hai ngành của những giáo lý Của Phật, mười hai loại bộ kinh điển.
38. Karandavyuha-sutra : Kinh Trang Nghiêm Bảo Vương, một kinh nói về Quán Thế Âm ; một trong những cuốn kinh Phật giáo đầu tiên đến Tây Tạng, xuất hiện một cách thần diệu trên trần cung điện của vua Lha-Thothori Nyentsen, vị vua thứ hai mươi tám của triều đại Chošgyal, năm 433.
39. Bốn thân (TT. sku bzhi) : Hóa thân (Nirmanakaya) hay “thân lưu xuất” ; Báo thân (Sambhogakaya) hay “thân thọ hưởng” ; Pháp thân (Dharmakaya) hay “thân chân lý” ; và Tự Tánh thân (Svabhavikakaya) hay “thân tinh túy”, là sự hợp nhất của ba thân trước.
Năm trí huệ (TT. ye-shes lnga) : Những diễn tả năm độc được chuyển hóa thành năm trí huệ có trong những câu 50–54 của bản văn.
40. Yama, Yamaraja : Thần Chết, một nhân cách hóa của định luật nhân quả, nó xác định cái chúng sanh sẽ trở thành phù hợp với những hành động họ đã làm.

Trả lời với trích dẫn