Kinh :
“Lại nữa, thiện nam tử ấy đã cùng tột tánh không của Hành Ấm, đã diệt sanh diệt, nhưng chưa viên mãn trong chỗ tinh diệu của Tịch Diệt. Nếu nơi chỗ hay biết, nhân sự hay biết cùng khắp mà lập ra cái nhận thức rằng cỏ cây mười phương đều gọi là hữu tình, không khác với người. Cây cỏ làm người, người chết rồi trở lại thành cỏ cây mười phương. Ở nơi cái hay biết cùng khắp, không có chọn lựa và cho là thắng giải. Người ấy sa vào kiến chấp Tri, Vô Tri, thành bạn bè của bọn Bà Tra, Tiển Ni chấp tất cả đều có hay biết, mê lầm Bồ Đề của Phật, bỏ mất Chánh Tri Kiến.
“Đó gọi là hạng Thứ Tư suy tính cái tâm Viên Tri thành cái quả sai lầm, trái xa tính Viên Thông, đi ngược đạo Niết Bàn, sanh ra giống Đảo Tri.
Thông rằng :
Ở trước thì quay về Minh Đế, mờ mịt không biết, nhưng cái biết thì không thể diệt được, nên nhân cái biết lập ra nhận thức rằng Nguồn Thức có biết, mà tất cả các pháp đều do cái Biết biến khởi ra. Bởi cho rằng cái thể của tánh Biết trải khắp cùng các pháp, đến nỗi nói rằng loài vô tình đều có biết, không có chọn lựa. Đó là lấy cái Không Biết làm cái Biết, nên gọi là Đảo Tri(11).
Bộ Hóa Thơ của Ông Đàm Tử(12) có nói : “Cây Phong già hóa làm đạo sĩ. Hạt lúa mục hóa làm bướm. Đó là từ vô tình mà thành hữu tình vậy. Cô hiền nữ hóa thành bia đá, con trùn núi hóa thành cây bách hợp. Đó là từ hữu tình mà thành vô tình vậy. Thế thì cái gì là người, gì là ta, gì là có thức, gì là vô thức ? Vạn vật là một vật, vạn thần là một thần vậy”.
Đó là kiến chấp “Cỏ cây làm người, người làm cỏ cây” vậy.
Có nhà sư hỏi Quốc sư Huệ Trung : “Cổ đức nói “Xanh xanh trúc biếc trọn là Pháp Thân, rờ rỡ hoa vàng đâu không Bát Nhã”. Có người không chịu, bảo là tà thuyết. Cũng có người tin, nói bất tư nghì. Không biết như thế nào ?”
Quốc sư nói : “Đây là cảnh giới của Đức Phổ Hiền, Văn Thù chẳng phải hàng phàm phu tiểu khí có thể tin nhận. Ý chỉ hợp với kinh Đại Thừa Liễu Nghĩa. Bởi thế, Hoa Nghiêm kinh nói “Phật Thân đầy tràn Pháp Giới, khắp hiện trước tất cả chúng sanh, tùy duyên cảm hiện không đâu chẳng khắp mà hằng tại tòa Bồ Đề này”. Trúc biếc đã chẳng ngoài Pháp Giới, há chẳng phải Pháp Thân đấy sao ? Lại nữa, kinh Bát Nhã nói : “Vì Sắc vô biên nên Bát Nhã cũng vô biên”. Hoa vàng đã chẳng vượt ngoài Sắc, há chẳng phải là Bát Nhã đó sao ? Lời nói sâu xa, kẻ chưa tỉnh ngộ khó mà hiểu được”.
Nghe xong, thiền khách làm lễ mà đi.
Lại có thầy Tòa Chủ giảng Hoa Nghiêm hỏi Hòa Thượng Đại Châu rằng : “Thiền khách cớ sao chẳng chịu “Xanh xanh trúc biếc trọn là Pháp Thân, rờ rỡ hoa vàng không chi chẳng là Bát Nhã” ?”
Tổ Châu nói : “Pháp Thân không có hình tượng, ứng ra trúc biếc mà thành hình. Bát Nhã vô tri, đối hợp hoa vàng mà hiện tướng. Chẳng phải hoa vàng, trúc biếc kia mà có Bát Nhã, Pháp Thân. Thế nên, kinh nói “Chân Pháp Thân của Phật giống như hư không. Ứng vật hiện hình như trăng trong nước”. Nếu hoa vàng thật là Bát Nhã thì Bát Nhã đồng với vô tình. Trúc biếc nếu thật là Pháp Thân thì Pháp Thân là đồ ứng dụng. Tọa Chủ có hiểu không ?”
Đáp rằng : “Chưa hiểu được ý này”.
Tổ Châu nói : “Như là người thấy Tánh thì nói phải cũng được, nói chẳng phải cũng được, tùy chỗ dùng mà nói, chẳng kẹt phải hay chẳng phải. Còn như người chẳng thấy Tánh, nói trúc biếc thì dính mắc trúc biếc; nói hoa vàng thì dính mắc hoa vàng; nói Pháp Thân thì kẹt Pháp Thân; nói Bát Nhã chẳng hay Bát Nhã. Bởi thế mà đều thành ra tranh luận”.
Vị Tọa Chủ lễ tạ rồi đi.
Tổ Diệu Hỷ nói : “Trong chúng thương lượng Đạo, hai vị tôn túc thiết tha thế kia. Một người được cái Thể, một người được cái Dụng. Được cái Dụng thì trên Sự mà kiến lập, được cái Thể thì trên Lý mà quét dẹp. Đó là chỗ nói là “Thật Tế Lý Địa không nhận hạt bụi, trong cửa Phật sự chẳng bỏ một pháp” vậy. Ta làm Pháp Vương, nơi pháp tự tại, hoặc đè hoặc nâng, không được không mất, cái kiến giải như vậy gọi là anh lùn xem kịch ! Chỗ thấy của Diệu Hỷ, các ông cũng cần chung biết. Há chẳng nghe nói “Đập tan xương sống con lừa, leo lên chân con ruồi xanh” ư ?”
Lại có nhà sư hỏi Tổ Vân Môn : “Như sao là Thanh Tịnh Pháp Thân ?”
Tổ Môn nói : “Hoa Dược Lan”.
Nhà sư hỏi : “Bèn cứ như vậy thì sao ?”
Tổ Môn nói : “Sư tử lông vàng”.
Ngài Tuyết Đậu tụng rằng :
“Hoa Dược Lan, chớ mơ màng !
Vạch số ở cán, không tại bàn cân
Bèn như vậy, thật không mối manh
Sư tử lông vàng, tay tổ ngắm”.
Ngài Thiên Đồng nêu ra rằng : “Giặc đến cần đánh, khách tới cần đãi. Vân Môn, Tuyết Đậu, cả hai đều là tay tổ. Trong ấy làm gì có chuyện “Bèn cứ như vậy” đâu ? Rất kỵ chạm đầu, đụng trán đấy !”
Căn cứ theo chỗ thấy của các vị tôn túc trên thì cái Viên Diệu còn không thể “Bèn cứ như vậy”, huống gì trong ấy lại so tính cái tâm “Biết hết” để thành cái quả sai lầm ư ?