Kinh :

“Lại nữa, trong Tam Ma Đề các thiện nam tử đó chánh tâm đứng lặng kiên cố, Ma không còn cơ hội. Người ấy cứu xét cùng tột cội gốc sanh loại, xem thấy cái cội nguồn giản phác u ẩn thường máy động kia, trong chỗ Hành Ấm còn tồn tại và Thọ, Tưởng Ấm đã diệt, lại so tính cả cái Có và Không, tự thể phá nhau, thì người ấy lọt vào những luận điên đảo Sau khi chết, Có và Không đều chẳng phải.

“Người ấy trong Sắc, Thọ, Tưởng thấy Có mà chẳng phải Có, trong Hành Ấm chuyển biến thấy Không mà chẳng phải Không. Xoay vần như vậy cùng tột các Ấm thành ra tám Tướng Đều chẳng phải. Tùy gặp duyên gì đều nói sau khi chết có Tướng, không Tướng.

“Lại suy tính Hành Ấm tánh nó dời đổi nên tâm phát ra thông tỏ, cho rằng Có, Không đều chẳng phải, hư thật lộn lạo. Do sự so tính, chấp “Sau khi chết, Có và Không đều chẳng phải” mà việc về sau tối tăm mù mịt, không còn lối đi, sa lạc vào ngoại đạo, mê lầm tánh Bồ Đề.

“Đây gọi là ngoại đạo Thứ Tám, lập luận điên đảo : Trong ngũ Ấm, sau khi chết, Có và Không đều chẳng phải.




Thông rằng :

Đây là kiến chấp Chẳng phải Có, chẳng phải Không vậy. Đó là do nơi sự so tính cả Có lẫn Không, tự thể của chúng phá nhau. Không chỉ Sắc, Thọ, Tưởng Ấm diệt nên cho là Có tức chẳng phải Có mà Hành Ấm dời đổi cũng cho là Không tức chẳng Không. Ở chỗ này mà xoay vần lui tới xét xem thì thấy cái đã diệt (Sắc, Thọ, Tưởng) trước đây đã từng có, nên tuy là Không mà chẳng Không. Cái hiện tồn tại (Hành) thì rốt rồi cũng diệt, thì tuy Có mà chẳng phải Có. Do so tính nước đôi về bốn Ấm như vậy nên thành ra tám thứ Chẳng Phải. Tùy nêu ra duyên gì đều đủ cả có Tướng và không Tướng. Đây chỉ ở nơi duyên mà xem thấy sự Có-Không của Tướng, chưa phải là tinh vi vậy.

Lại ở trong sự dời đổi sanh diệt của tánh Hành Ấm, thấy trong sanh tức có diệt, nên chẳng phải Có, thấy trong diệt tức có sanh, nên chẳng phải Không vậy. Ở trên tánh Hành Ấm mà quán xét để thấy Có, Không đều chẳng phải thì chẳng phải là người tâm đã phát thông tỏ làm sao thấy được. Có mà chẳng Có, đó là Diệu Hữu. Không mà chẳng Không, đó là Chân Không. Đó mới là Đệ Nhất Nghĩa Đế Diệu Chân Như Tánh vậy.

Người ấy chỉ ở nơi tánh Hành Ấm thấy Có và Không đều chẳng phải, còn Thức Ấm ở sau vẫn còn mù mịt không thấy gì, nên hư thực lộn lạo chẳng biết chỗ về. Đã không có chỗ quay về an nghỉ thì không thể trọn xong cái Đạo. Tuy muốn phát huy cái cảnh giới Chẳng phải Sanh, chẳng phải Diệt của Tạng Thức, cũng không thể được, huống nữa là cái Chân Lý bất sanh bất diệt của Chân Như Đệ Nhất Nghĩa Đế ư ? Cái gọi là thông tỏ của người ấy thì gần giống với cái ngộ của bậc Duyên Giác, chứ chưa có thể nói là Chánh Ngộ.

Thứ luận Có, Không đều chẳng phải này cũng từ lối nói càn loạn ở trước : Cũng Có tức là cũng Không, trong cái cũng Không chẳng phải là cũng Có. Suy tính cùng cực về việc sau khi chết mà sáng lập ra luận này, đều gọi là điên đảo.

Ngoại đạo hỏi Phật : “Chẳng hỏi Hữu Ngôn, chẳng hỏi Vô Ngôn”.

Đức Thế Tôn im lặng chập lâu.

Ngoại đạo tán thán rằng : “Thế Tôn đại từ đại bi, mở vẹt đám mây mê mờ cho tôi, khiến được thể nhập !”

Sau khi ngoại đạo đi rồi, Ông Anan hỏi Phật : “Bạch, ngoại đạo chứng chỗ gì mà nói là được nhập ?”

Đức Phật nói : “Như ngựa hay trong đời, thấy bóng roi mà chạy !”

Đức Thế Tôn ví người ngoại đạo với con ngựa hay, vì tâm ấy cũng phát thông tỏ vậy.
Ngài Tuyết Đậu tụng rằng :

“Máy tạo chưa từng chuyển
Chuyển ắt chạy hai đầu
Gương sáng bỗng trên đài
Ngay đó phân đẹp xấu
Đẹp xấu phân, hề, mây mê vẹt
Cửa Từ sanh bụi chốn nào đâu ?
Nhân đây ngựa giỏi theo roi bóng
Lướt gió dặm ngàn kêu được về
Kêu được về, búng tay ba tiếng !”


Có nhà sư hỏi Tổ Pháp Nhãn : “Như sao là nhà sư tịch, trước mặt chạm mắt là Bồ Đề ?”
Tổ Nhãn nói : “Đó là trước mặt ông !”
Lại hỏi : “Nhà sư tịch thiên hóa về chốn nào ?”
Tổ Nhãn nói : “Nhà sư tịch thiên hóa hồi nào ?”
Nhà sư hỏi : “Thế bây giờ thì sao ?”
Tổ Nhãn nói : “Ông chẳng biết nhà sư tịch”.
Tổ Pháp Nhãn tận lực hô hoán mà chẳng biết quay đầu ở đây mà tỉnh ra thì có thể nói “Tứ cú đều lìa, linh căn độc lộ”