Thông rằng :
Sáu cõi trời Dục Giới ở trước thì hình thức tuy đã ra khỏi động, đã lìa khỏi hai nẻo người và Tiên, nhưng dấu vết tâm thức vẫn còn, cái Dục Niệm chưa hoàn toàn hết hẳn, nên chẳng thể nói là Phạm Hạnh được. Nếu người tu Phạm Hạnh mà chỉ biết giữ Giới, tu đạo Thập Thiện, chẳng biết Thiền Na thì không có Trí Huệ. Bởi thế nơi các Cấm Giới, chỉ có Dâm là khó dứt trừ. Thêm cái nỗ lực trừ Dâm, thì không còn ở Dục Giới, đó là hàng Phạm Chúng. Tâm đã lìa Dục thì Giới là Chân Giới, đối với các Luật Nghi vui thích tùy thuận, đó là Phạm Phụ. Cấm Giới thanh tịnh lại thêm minh ngộ, nghĩa là ngộ Dục tức là Tánh. Giới mà không chỗ Giới, đó là Đại Phạm. Giới và Định tương ứng, được cả Định lẫn Giới, đã lìa tám thứ khổ của cõi Dục, nên cái tướng thô của khổ não không thể bức bách, gọi là Ly Sanh Hỉ Lạc Địa. Tất cả đều thuộc Sơ Thiền.
Từ đây trở lên, không có ngôn ngữ, chỉ dùng định tâm phát ra ánh sáng. Ánh sáng có mạnh, yếu mà phân ra cao, thấp. Thiểu Quang là ánh sáng còn yếu. Lần lượt phát ra nhiều ánh sáng là Vô Lượng Quang, còn chưa thành âm thanh vậy. Đến khi thành tựu cái giáo thể, khiến cho người thấy ánh sáng thì biết tu đức hạnh trong sạch, tùy theo căn cơ mà được lợi ích, ứng dụng không cùng thì ánh sáng tròn vẹn thành âm thanh đó vậy. Khi cái Định này sanh thì cùng với sự hoan hỉ phát ra, gọi là Hỉ Câu Thiền. Những lo buồn vi tế không thể bức bách được, gọi là Định sanh Hỉ Lạc Địa. Đây đều thuộc về Nhị Thiền.
Từ đây trở lên, lìa cái động hoan hỉ trước kia mà sanh ra cái vui thanh tịnh. Cái vui này chẳng phải là cảnh, mà xuất sanh từ Bản Tánh thanh tịnh, tương tự với cái Tịch Diệt là vui. Ban đầu nói là tiếp thông thì sự thanh tịnh còn yếu, còn đã nói là thành tựu thì thân tâm khinh an, hợp với bản tánh nhiệm mầu, nhưng chưa đến chỗ cùng khắp. Duy chỉ thế giới, thân tâm, tất cả toàn vẹn trong sạch, đây là cảnh giới thù thắng hiện tiền. Nương nơi cảnh giới thù thắng chứ chưa phải thật là tịch diệt hiện tiền. Chỉ tùy thuận theo bản tánh thanh tịnh, quy về cái vui tịch diệt, công đức của cái Định này cùng phát ra với cái vui khắp thân thể, gọi là Lạc Cu Thiền. Tuy lìa cái động hoan hỉ ở trước mà hoan lạc đầy đủ, gọi là Ly Hỉ Diệu Lạc Địa. Đây đều thuộc về Tam Thiền.
Cái động hoan hỉ là nhân của khổ bức. Lìa Hỉ thì cái nhân khổ đã hết, được vui vô lượng. Cái vui này do hữu vi mà có, vui lâu thì cũng phải hoại diệt, hoại diệt thì thành khổ. Bởi thế, Khổ Vui đều xả bỏ thì tướng thô nặng diệt mất. Niệm xả bỏ thanh tịnh thì tánh phúc thanh tịnh hiện ra. Cái phúc do tịnh đức mà ra nên tam tai không đến được, gọi là Phúc Sanh. Khổ Vui đều mất, xả bỏ không chỗ xả bỏ, chỉ vui thích tùy thuận tánh phúc không gì che đậy, gọi là Phúc Ái. Đều gọi là Xả Cu Thiền.
Từ đây có hai đường rẽ : Nếu nơi ánh sáng vô lượng, thanh tịnh vô lượng, phúc đức tròn sáng mà không sanh khởi dị chấp, không có tâm sanh diệt thì hướng thẳng về Quảng Quả Thiên. Đó là cái quả do phúc thanh tịnh rộng lớn mà cảm ứng vậy. Nếu nơi cái tâm trước kia nhàm chán cả Khổ lẫn Vui, chuyên nghiền ngẫm cái tâm xả bỏ, thì xả bỏ được cái tâm thô mà vào tâm vi tế. Lại bỏ cái tâm vi tế mà vào cái tâm rất vi tế. Từ cái tâm rất vi tế mà tiếp tục không ngừng cho đến chỗ xả bỏ tất cả tâm tưởng, tâm ý dứt ngưng. Tướng vọng tưởng này gọi là Vô Tưởng Định, bèn theo con đường xa hút nghiêng lệch mà sanh cõi trời Vô Tưởng. Người đó không rõ bản tánh của vọng tưởng là Không, Vọng tức là Chơn, nên nhàm chán cái sanh diệt đây mà cầu cái chẳng sanh diệt. Dẫu đến thân tâm đều diệt cũng chẳng phải là tánh chẳng sanh diệt chân thực vậy. Như cá ép trong nước đá thôi ! Ban đầu, sanh lên cõi trời đó chưa hẳn là vô tưởng, trải qua nửa kiếp mới thật được không có tưởng. Đến khi quả báo sắp hết thì nửa kiếp sau có tưởng mà tâm tướng hiện ra nên kinh nói “Nửa kiếp đầu diệt, nửa kiếp sau sanh”. Trong khoảng bốn trăm chín mươi chín kiếp, một bề là không có tưởng, do sức Định nắm giữ, tất cả Khổ Vui không thể lay động. Đây đều là Tứ Thiền.
Ở Sơ Thiền, Nhị Thiền, nói là “Chẳng phải chân chánh tu hành Tam Ma Địa”. Ở Tam Thiền, thì nói là “Chẳng phải chân chánh được Tam Ma Địa”. Đến Tứ Thiền, nói là “Chẳng phải Địa Vị Bất Động chân thực của Vô Vi”. Sơ Thiền thì tu Giới. Nhị Thiền thì tu Định. Từ trong Phạm Hạnh thanh tịnh mà tu, tuy không đến nỗi là tà định của quỉ thần, nhưng chẳng phải là từ Tam Ma Địa chân thật mà phát tâm.
Đây là chỗ phân biệt giữa Hữu Vi và Vô Vi vậy. Tam Thiền thì có chỗ đắc, đắc nên vui. Có đắc, có vui tức là chẳng phải Tam Ma Địa chân thật. Đây là chỗ phân biệt giữa có đắc và không đắc vậy. Đến Tứ Thiền thì cái tâm có chỗ đắc cơ hồ xả bỏ hết sạch, có thể gọi là vô vi, nhưng đó là do dụng công thuần thục mà ra chứ chẳng phải là Bất Động Địa chân thực.
Nếu là chân Bất Động Địa thì các thứ khổ không thể đến, đến còn chẳng thể được thì cái gì lay động ư ? Nay lại lấy chỗ mà các cảnh khổ vui của thế gian chẳng thể động đến mà cho là Tam Ma Địa, thì Tam Ma Địa đó có thể tu đến nơi vậy. Có thể tu đến nơi thì chẳng phải là Tam Ma Địa vậy. Cho nên cái Tam Ma Địa chân thật thì chẳng đủ Trí Huệ Bát Nhã bèn không thể nào biết được. Nay hạng Tứ Thiền tu tâm, chẳng ở trong Thiền Na thì không có Trí Huệ, nên ở Tam Ma Địa chân thực có chỗ chẳng biết vậy.
Hòa Thượng Chân Tịnh khai thị đại chúng rằng: “Ngày này đã qua, mệnh đời cũng theo đó mà dứt giảm, như cá ít nước, thế có vui gì ?” Duy bậc Nhị Thừa thì thiền định tịch diệt là vui, đó là cái vui chân thật. Bồ Tát học Bát Nhã thì pháp hỉ, thiền duyệt là vui, đó là thật vui. Ba đời Chư Phật thì Từ, Bi, Hỉ, Xả, bốn Vô Lượng Tâm đó là thật vui.
Thạch Sương Phổ Hội nói rằng : “Ngừng đi, thôi đi ! Lạnh lẽo u sầu đi ! Đó là cái vui tịch diệt của Nhị Thừa”.
Vân Môn nói rằng : “Nhất Thiết Trí suốt thông không chướng ngại”.
Cầm cây quạt đưa lên, nói : “Thích Ca Lão Trượng đến !”
Đó là cái vui pháp hỉ thiền duyệt. Đức Sơn đánh, Lâm Tế hét, đó là cái vui từ bi, hỉ xả của ba đời Chư Phật.
Ngoại trừ ba thứ vui đó, chẳng có gì là vui vậy. Thử nói xem một chúng Quy Tông đây, trong ba thứ vui đó hay ngoài ba thứ vui đó ?
Chập lâu, nói rằng : “Hôm nay trang chủ bày biện cơm canh, biếu tiền, biếu của. Tham dự rồi, trong tăng đường khắp mời uống trà đi”. Hét một tiếng. Lại như thiền sư Nga Hồ Đại Nghĩa được vua Hiến Tông mời vào nội điện luận kinh nghĩa.
Có vị pháp sư hỏi : “Dục Giới không Thiền, Thiền nơi Sắc Giới, thì cõi này nương gì mà lập ?” Ngài nói : “Pháp sư chỉ biết Dục Giới không Thiền, chẳng biết Thiền Giới không dục”. Hỏi : “Thế nào là Thiền ?” Tổ Nghĩa lấy tay điểm hư không. Pháp sư không chỗ đối đáp.
Nhà Vua nói : “Pháp sư giảng kinh luận vô cùng, thế mà chỉ một điểm ấy, lại chẳng biết là sao ?”
Cho nên cái chân Tam Ma Địa thật chẳng dễ biết. Biết thì thoát ngay khỏi ba cõi, kể gì đến bốn cõi thiền ư ?