Thông rằng :

Đức Thế Tôn nói về mười Tập Nhân, mỗi mỗi phối hợp với sự việc trong địa ngục, không sai mảy tơ. Tập quán thì hẳn có nguyên nhân. Cái nhân đó chỉ có thể sanh ra các tướng nước, lửa, nhưng chưa có cái Dụng, lại thêm vào các thói quen giao tiếp đối đãi nhau mà thành sắt nóng, giá lạnh... các thứ. Nhưng mười phương Như Lai ở ngay trong chỗ nhân sanh khởi mà thấy suốt sự tốt, xấu nên chẳng có sự gì để tu. Bồ Tát thì biết rõ đó là cái họa hại nên thận trọng thanh khiết mà không phạm nên xa lánh chúng. Dù có địa ngục mà trước đã không có nhân, nên chỉ có Phật cùng Bồ Tát mới có thể nói là không có địa ngục vậy. Còn chưa đến Tâm, Hạnh như thế làm sao mà cho rằng tất cả là Không.

Đức Di Lặc nói : “Trong Dục Giới có ba mươi sáu chốn. Đó là tám đại địa ngục. Sao là tám ? Một là Đẳng Hoạt, hai là Hắc Thằng, ba là Chúng Hợp, bốn là Hiệu Khiếu, năm là Đại Hiệu Khiếu, sáu là Thiêu Nhiệt, bảy là Cực Nhiệt, tám là Vô Gián. Các chốn địa ngục này rộng mười ngàn do tuần. “Ngoài những chỗ này lại có tám chốn địa ngục lạnh. Sao là tám ? Một là Pháo, hai là Pháo Liệt, ba là Hác Phàm, bốn là Hác Hác Phàm, năm là Hổ Hổ Phàm, sáu là Thanh Liên, bảy là Hồng Liên, tám là Đại Hồng Liên. Từ chỗ này xuống ba mươi hai ngàn do tuần thì đến Đẳng Hoạt. Từ chỗ này lại cách bốn ngàn do tuần thì có địa ngục khác như chốn đại địa ngục Đẳng Hoạt. Chốn địa ngục lạnh ở trước cũng vậy. Từ chỗ này lại cách hai ngàn do tuần có các địa ngục khác nữa”.

Ngài lại dạy : “Ở trong đại địa ngục Đẳng Hoạt chịu nhiều cực hình khổ sở. Các hữu tình kia phần nhiều hướng về chỗ tạo nghiệp tăng thượng, sanh ra đủ thứ khổ, lần lượt khởi lên mà tàn hại lẫn nhau, chết giấc nằm lăn lóc trên đất. Khi ấy trên không có tiếng nói lớn, xướng lên rằng “Các hữu tình kia được sống trở lại hết thảy”. Liền đó, các hữu tình lại bỗng đứng dậy”.

Xem đây thì rõ là địa ngục không phải là không có chỗ nhất định. Kinh Tịnh Độ Tam Muội nói : “Xưa Quốc Vương Tỷ Sa và Thủy Vương Duy Đà đánh nhau. Vua Duy Đà thua, phát thệ nguyện làm vua dưới đất. Khi ấy, bề tôi vua có mười tám người dẫn một trăm vạn người nguyện trên đầu mọc sừng theo vua giúp trị theo pháp để xử trị người có tội. Nay gọi là vua Diêm La, Ngưu Đầu, A Bàng đó vậy”. Xem đây thì rõ ràng địa ngục cùng thân thể chẳng phải từ mười phương đến, mà chỉ do ác nghiệp trói buộc sanh ra thân địa ngục vậy. Mười Tập Nhân : Dâm, Tham, Mạn, Sân, Trá, Cuống, Oán, Ác Kiến, Vu Vạ và Kiện Tụng tương tự như năm mươi mốt Tâm Sở : Phẫn, Hận, Não, Phú, Cuống, Siểm, Kiêu, Hại... Nhưng vì sao tóm lại thành mười ? Ở đây, chỉ kể các nghiệp bất thiện.

Cho nên Tham, Sân, Mạn và Tà Kiến thuộc về Ý Nghiệp, mà Mạn được gọi là uống nước Si, thì trong đã có Si vậy. Oán, Sân và Dâm thuộc về Thân Nghiệp mà tập khí Oán, Sân, Sát... thì Sát, Đạo đã ở trong đó vậy. Cuống, Trá, Vu Vạ, Kiện Tụng thì ý nghĩa cũng tương tự. Vì sao phân ra bốn ? Vì đó là bốn cái thuộc về Khẩu Nghiệp. Cho nên Cuống là Vọng Ngữ, Trá là Ỷ Ngữ, Vu Vạ là Lời Ác, và Kiện Tụng là Lưỡng Thiệt. Dâm là chỗ tự đến của thân kiến, lại là gốc ban đầu tạo nghiệp nên đầu hết nêu ra Dâm. Dâm do cọ xát mà sanh lửa. Tham do thu vào mà sanh nước. Tương tự như người dương thịnh thì nằm mộng thấy lửa, người âm thịnh thì nằm mơ thấy nước. Giường sắt, cột đồng là cái thói quen chồng chất của Vọng Tưởng ôm giữ, nằm nghỉ lâu dài vậy. Ba ba, tra tra, la la là âm thanh rên chịu lạnh. Đó là tên khác của hổ hổ, hác hác. Sen xanh, đỏ, trắng là màu của băng lạnh vậy. Nước Si ở Thiên Trúc có, hễ uống vào thì si mê, cùng loại với nước suối tham, uống vào thì á khẩu, to bụng. Sự kiêu dật cũng có mùi vị ấy nên người cùng siểm nịnh thì như ngâm trong nước bẩn mà chẳng tự biết. Thói quen dâm dục do nóng bức mà phát hỏa, tự hao tinh khí. Thói quen nóng giận do nghịch khí phát hỏa, làm mạnh thêm khí nóng. Hỏa khắc Kim nên nung đốt cái Khí khiến cho Khí tuy cứng mà phải tự thương tổn.

Thói quen dối trá nương nơi gian dối mà khởi ác, ban đầu là cười vui, kế đến là lan man. Cái trí xảo như nước nên giả dối lấy trí mẹo làm đầu, như beo sói tuy rất nhỏ mà có thể ăn cọp. Thói quen lừa gạt thì giả vờ có đức hạnh khiến người khác mê mờ, ví như gió nổi bụi khiến người không thấy. Bởi thế sự cướp hại, lừa người không thấy cũng như rắn độc bất ngờ cắn người vậy. Giận dữ lộ ra ngoài nên sát khí nổi lên, thuộc về Sát. Oán ghét chứa bên trong nên ôm giữ độc ác như lấy bao trùm người mà đánh, đó là việc ám muội, tức thuộc về trộm. Quỉ Vi Hại, rượu chim Cưu đều là âm độc.

Thói quen tà kiến có năm : Một là Thân Kiến, là chấp thân có thực nên toan tính đủ điều. Hai là Biên Kiến, đó là với tất cả các pháp chấp là Đoạn, là Thường. Ba là Tà Kiến, là hiểu sai ngộ lầm, bác bỏ không có Nhân Quả. Bốn là Kiến Thủ, đó là chẳng phải thật Quả mà cho là Quả, ví như lấy cõi trời Vô Tưởng mà cho là Niết Bàn. Năm là Giới Cấm Thủ, đó là chẳng phải Nhân mà cho là Nhân, ví như giữ giới chó, bò... mà cho là Nhân để sanh cõi Trời. Năm Tà Kiến này gọi chung là ác kiến, tương phản lẫn nhau, như người đi đường, kẻ đi người lại, chỗ thấy biết trái khác nhau, nên cần phải khám hỏi. Ép uổng người lương thiện, chẳng vặn vẹo mà làm ra vặn vẹo, nên bị ép cái xác, khô kiệt máu huyết, hoặc cân đo máu và xác cho đúng lượng, như loài súc vật vậy.

Thói quen kiện tụng thì do đây kia, sanh ra chuyện kiện thưa, đâm ra nhọc nhằn, giống như đội núi mà đi dưới biển, Bồ Tát há chịu làm ư ? Năm Kiến Chấp và Tham, Sân, Si, Mạn đoạn rồi thì chứng quả Thứ Ba là Đoạn Trừ Hoặc của chín phẩm của địa dưới. Còn các Hoặc(56) này chẳng có đoạn thì tạo nghiệp không ngớt, có nhân thế nào thì quả phải thế ấy.

Xưa, có Ông Lý Lưu Hậu, tự Đoan Nguyện hỏi thiền sư Đạt Quan rằng : “Người chết rồi đi về đâu ?”
Tổ Quan nói : “Chưa biết sống sao biết chết ?”
Ông Lý nói : “Sống thì Đoan Nguyện này biết rồi”.
Tổ Quan nói : “Sống từ đâu đến ?”
Ông Lý trầm ngâm.
Tổ vỗ vào ngực, nói : “Chỉ tại trong ấy, suy nghĩ cái gì ?”
Ông Lý : “Dạ, hiểu. Chỉ biết đường ham, ngờ đâu lạc nẻo !”
Tổ khoát gạt ra, bảo : “Trăm năm một giấc chiêm bao”.
Ông Lý lại hỏi : “Địa ngục rốt cùng là có hay không ?”
Tổ đáp : “Chư Phật hướng về trong Không mà nói Có : mắt thấy Không-hoa. Ông lại ở trong Có tìm Không : tay mò trăng dưới nước. Nực cười thay trước mắt thấy nhà tù mà không tránh, ngoài tâm thấy thiên đường mà muốn sanh về ! Đâu biết thích sợ tại tâm thì thiện ác thành tựu. Ông chỉ rõ biết Tự Tâm, tự nhiên không nghi hoặc !”
Ông Lý hỏi : “Tâm làm sao rõ ?”
Tổ đáp : “Thiện ác thảy chẳng suy lường !”
Ông lại hỏi : “Chẳng suy lường rồi, tâm về chốn nào ?”
Tổ nói : “Mời Thái Úy về sở làm”.
Tổ Động Sơn hỏi nhà sư : “Ở đời cái gì là khổ nhất ?”
Nhà sư đáp : “Địa ngục khổ nhất”.
Tổ Sơn nói : “Không phải đâu ! Ngoảnh về dưới sợi chỉ dệt áo này mà chẳng rõ chuyện đại sự, ấy mới khổ”.
Ngài Đơn Hà tụng rằng :

“Vạc sôi lò lửa bao nhiêu chuyện
Địa ngục, tam đồ khổ hết than !
Phải tin Tổ Động, lời thân thiết
Dưới lớp cà sa chớ mơ màng !”.


Rõ đại sự thì không có nhân địa ngục, nên địa ngục chưa phải là khổ. Còn chẳng rõ Tự Tâm thì khổ hết chỗ than !