Kinh:

“Hạnh đồng với Phật, lãnh nhận khí phần của Phật, như thân trung ấm tự tìm cha mẹ. Cái âm tín thầm thông vào dòng giống Như Lai, gọi là Sanh Quý Trụ.

Thông rằng:

Hạnh đồng với Phật là từng phần Chân Trí bình đẳng với Cứu Cánh Trí. Nhận khí phần của Phật là từng phần Chân Lý bình đẳng với Cứu Cánh Lý. Đoạn trước nói: “Khí Phần giao tiếp” thì còn là hai, Đến đây, vào dòng giống Như Lai thì cơ hồ hợp làm một vậy.
Thân Trung Ấm là cái Ấm này đã hết mà cái Ấm kia chưa sanh, ở khoảng giữa hai cái Ấm này, lơ lững giữa hư không bốn mươi chín ngày tự tìm cha mẹ. Nghiệp Duyên tương tự thì đến thai sanh. Chỗ này là âm tín thầm thông, chẳng phải do suy tính tìm cầu. Quyền trí như cha, thực trí như mẹ, nhậm vận tương hợp, chẳng mượn công sức, cái quả đức âm thầm bằng nhau. Đâu thể biết sự tự nhiên nhi nhiên, do đó như âm như thầm mới có thể vào dòng giống Như Lai.
Nói là Sanh Quý cũng giống như Vương Tử còn trong thai mà ngôi vị đã khác thường dân, nên nói rằng Quý. Quý ở chỗ đốn chứng Vô Thượng Đệ Nhất Pháp Môn vậy.
Tổ Động Sơn có họa đồ Ngũ Vị Vương Tử. Một là Đản Sanh. Hai là Triều Sanh. Ba là Mạt Sanh. Bốn là Hóa Sanh. Năm là Nội Sanh. Tất cả đều dùng để phát minh cơ duyên hướng thượng.
Tổ Thạch Sương tụng về “Ngũ Vị Vương Tử Đồ” như sau:

Một là Đản Sanh :
Sang cả tự nhiên vốn chẳng công
Đức hợp Càn Khôn nuôi thịnh dòng
Đầu đuôi một giống không sai khác
Cung phân sáu trạch (nhà) cũng đồng tông
Trên hòa dưới kính, âm dương thuận
Cộng khí (phần) liền cành, khí lượng đồng
Muốn rõ Đản Sanh Vương-Tử-Phụ
Vút ra lồng bạc hạc thong dong.
Hai là Triều Sanh
Khổ học tình đời luận khó bì
Ra rồi phàm sự đã vô vi
Thơ thành năm chữ, ba đông tuyết
Bút phẩy tơ hào, bốn biển mây
Công chứa muôn pho nên thời thánh
Một lòng trung hiếu giúp minh quân
Mặn chua chẳng phải sanh hay (biết) được
Nào nhọc bảng vàng hiển đại công.
Ba là Mạt Sanh
Nương lâu hang hốc dụng công phu
Giường cỏ cửa cây giữ chí cô (đơn)
Nghe, thấy mười năm tâm tự chứa
Một thân đông hạ, áo y không
Trong lặng mỉm cười ba thu ý
Thanh khổ cao danh thượng triết đồ
Nên nghiệp cao khoa đền chí cũ
So ra quan tướng chẳng ai bằng
Bốn là Hóa Sanh
Nương phần đế mệnh để truyền trì
Muôn dặm sơn hà hiển chánh uy
Mặt trời đỏ bóng ngừng cõi dưới
Mây dồn gió mát lúc oi nồng
Thấp cao há bỏ tôn ti lệnh
Năm khố xa gần biết phục sinh
Tay cầm diệu ấn biên cương lặng
Ngôi trời nào lộ chút cơ vi
Năm là Nội Sanh
Thẳm chốn cửu trùng há lại tuyên
Khoác xấu xa để hiển diệu truyền
Chỉ thờ một đấng trời đất quý
Theo kia các đạo tự phân quyền
Tử La màn khép, vua tôi cách
Hoàng Các rèm buông, cấm chế toàn
Vì ngươi chốn chốn cung thần mến
Mượn lá vàng ngưng nín khóc liền


Có nhà sư hỏi Tổ Thụy Nham: “Thế nào là Vương Tử Đản Sanh?”
Tổ Nham nói: “Thâm cung dẫn chẳng ra”.
Ngài Đầu Tử tụng rằng:

“Quý lạ thiên nhiên hẳn có thì
Vườn Xuân sáu viện ít tương tùy
Nửa đêm sao hợp thiên luân khác
Đuốc chiếu trong cung lặng rủ rèm”.

Cho nên một đường Sanh Quý là tông phong của Tào Động, rất là miên mật. Chẳng vào thất này khó cùng nói năng.