DIỄN ĐÀN PHẬT PHÁP THỰC HÀNH - Powered by vBulletin




Cùng nhau tu học Phật pháp - Hành trình Chân lý !            Hướng chúng sinh đi, hướng chúng sinh đi, để làm Phật sự không đối đãi.


Tánh Chúng sinh cùng Phật Quốc chỉ một,
Tướng Bồ Đề hóa Liên hoa muôn vạn.

Trang 18/59 ĐầuĐầu ... 8161718192028 ... CuốiCuối
Hiện kết quả từ 171 tới 180 của 588
  1. #171
    NỤ Avatar của Thiện Tâm
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    601
    Thanks
    275
    Thanked 229 Times in 156 Posts


    Kinh:

    “Anan, ông há chẳng biết ngay ở trong hội này, Ông A Na Luật Đà không có Mắt mà thấy; rồng Bạt Nan Đà không có Tai mà nghe; thần nữ Căng Già không có Lưỡi mà biết mùi vị; thần Thuấn Nhã Đa không có Thân mà biết cảm giác, trong hào quang Như Lai chiếu ra, làm cho tạm hiện ra có thân, chứ bản chất của ông là gió làm gì có thân thể? Các vị Thanh Văn được tịch diệt ở trong Diệt Tận Định, như Ông Ma Ha Ca Diếp trong hội này, diệt mất Ý Căn từ lâu mà vẫn hiểu biết tròn vẹn sáng suốt, không do ở tâm niệm”.

    Thông rằng:

    Kinh nói, “Vốn sáng suốt mà chẳng theo Căn”, cho đến việc “Sáu Căn dùng thay nhau”, ở chỗ nào mà nghiệm? Ông Luật Đà được nửa cái Thiên Nhãn nên không cần nhờ con Mắt. Rồng lấy sừng nghe nên chẳng cần đến Tai. Thần sông Căng Già ngửi Hương vốn chẳng dùng Mũi. Ông Bạt Đề lưỡi trâu mà vẫn phân biệt các Vị. Thần Thuấn Nhã không thân mà vẫn có xúc giác. Các vị Thanh Văn đã chứng Diệt Tận Định, như Đại Ca Diếp, đã diệt mất Ý Căn từ lâu.

    Do đó mà biết sáu Căn có thể không có, thì vốn chẳng phải là sáu. Sáu Căn có thể dùng thay cho nhau, thì vốn chẳng phải là một. Chẳng phải một, chẳng phải sáu, mà cái Thể trong lặng tròn đầy kia, ai ai cũng sẵn đủ, há chẳng ở nơi đây mà càng tự tin lấy sao?

    Ngài Phổ Dung Trí Tạng đến chỗ Ngũ Tổ Pháp Diễn đang nhập thất, Tổ đem chuyện Thảnh Nữ [Chuyện Cô Thảnh Nữ lìa hồn như sau: Đời Đường có ông Trương Giật, có con gái là Thảnh Nương, đã hứa gả cho cháu là Vương Trụ. Lớn lên, định gả cho nơi khác. Vương Trụ bỏ đi. Nửa đêm thấy Thảnh Nương tới. Hai người ở với nhau có hai con. Sau năm năm, Vương Trụ đưa vợ con về thăm nhà để xin lỗi. Ông Giật rất kinh ngạc, vì cô Thảnh vẫn ở nhà từ trước đến giờ, và nằm bệnh đã năm năm. Hai cô gặp nhau thì nhập thành một] lìa hồn mà hỏi. Ngài liền khế ngộ, làm bài kệ:

    “Hai cô hợp thành một cô dâu

    Cuộc đời ngăn đứt, khó gặp nhau

    Từ đây qua lại không tung tích

    Lúc đến, người đi chớ hỏi đường!”.


    Ông Trương Tử Thiều đến Tổ Kính Sơn, cùng với ông giúp việc trong chùa đàm luận về “Cách Vật”.

    Tổ Kính Sơn Huệï nói: “Ông chỉ biết có Cách Vật mà không biết có Vật Cách”.

    Ông Thiều ngơ ngác. Tổ Huệ cười lớn.

    Tử Thiều hỏi: “Thầy có thể đem ra thí dụ được chăng?”

    Tổ Huệ nói: “Không thấy trong tiểu thuyết có chép: Đời Đường, có người làm quan Lang Thủ cùng An Lộc Sơn mưu phản. Khi vua Đường Minh Hoàng đến đất Thục, thấy hình tượng của người này, nổi giận ra lệnh cận thần chém đầu bức tượng. Khi ấy Lang Thủ đang ở Thiểm Tây mà đầu bỗng rớt xuống đất”.

    Ông Tử Thiều nghe xong liền ngộ ý chỉ sâu mầu.

    Ngài Phần Dương có bài tụng Lục Tướng:

    “Thấy là A Na Luật

    Rõ ràng không một vật

    Núi sông cùng đất đai

    Diễn bày Ba La Mật.

    Nghe là Bạt Nan Đà

    Tiếng thông, không gì quá

    Xa gần đồng đều rõ

    Chẳng cần niệm Ma Ha.

    Ngửi là Căng Già nữ

    Tâm từ bi cùng khắp

    Sạch dơ đều rõ hết

    Tức đó, không ta người.

    Nếm là Kiều Phạm Ba

    Ngọt đắng cũng bình thường

    Vào miệng rõ cay chua

    Giống như trăng giữa trời.

    Xúc là Thuấn Nhã Đa

    Thiện ác, hết thảy hòa

    Cắt xẻ không vui giận

    Chỉ thật A Di Đà.

    Ý là Đại Ca Diếp

    Tỳ Lô [Pháp Thân] là Một Pháp

    Nhà tối rõ ràng phân

    Chi phái ngàn hoa lá”.


    Chỗ Thấy của Ngài Phần Dương xa thẳm lạ thường, mượn sáu Căn này mà mỗi mỗi chỉ ra cửa hướng thượng. Trái lại, không rời chuyện “Phục về nguồn Chân, phát ra cội nguồn sáng suốt chói rực” mà thôi vậy.



  2. #172
    NỤ Avatar của Thiện Tâm
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    601
    Thanks
    275
    Thanked 229 Times in 156 Posts


    Kinh:

    “Anan, giờ đây các Căn của ông mà nhổ sạch ra được, thì cái sáng chói bên trong phát ra. Như thế, các phù trần và các tướng biến hóa của thế gian vật chất đều tiêu mất như băng gặp nước sôi, lập tức hóa thành Tri Giác Vô Thượng.

    Thông rằng:

    Tùy theo nhổ dứt một Căn, thoát khỏi sự dính, phục về bên trong, trở lại cùng tột dòng Căn đến chỗ chẳng sanh chẳng diệt. Đó là chuyện phía bên công phu, cái cơ duyên là do ở ta.

    Các Căn nhổ sạch, cái sáng chói bên trong phát ra, sanh diệt dứt hết, Tịch Diệt hiện tiền. Đây là chuyện phía bên Đốn Ngộ, cơ duyên chẳng ở tại ta. Do đó, không ngộ thì căn thân phù trần, các tướng biến hóa của thế gian sự vật đều quy về Pháp Sanh Diệt, như nước đóng thành băng. Còn một phen Đốn Ngộ, liền chuyển cái Sanh Diệt làm Tánh Chẳng Sanh Chẳng Diệt, như nước sôi tiêu tan băng giá, mà trở lại thành nước vậy. Nước là cái Bổn Lai vậy. Vô Thượng Tri Giác là cái vốn có của ta vậy. Đã thành ra cái Tri Giác Vô Thượng, thì còn có sáu tên giặc nào để lo nữa ư ?

    Ngài Long Đàm Tín hỏi Tổ Thiên Hoàng Ngộ rằng: “Từ khi đến đây, con chẳng được Hòa Thượng chỉ bày cho tâm yếu”.

    Tổ Hoàng nói: “Từ khi ông đến đây, ta chưa từng có lúc nào mà không chỉ bày tâm yếu”.

    Ngài Long Đàm nói: “Chỉ bày chỗ nào đâu?”

    Tổ Hoàng nói: “Ông đem trà tới, ta vì ông rước lấy. Ông đem cơm tới, ta vì ông lãnh lấy. Khi ông cung kính, ta bèn cúi đầu. Có chỗ nào là chẳng chỉ bày cái tâm yếu cho ông đâu?”

    Thầy Long Đàm đứng trân, suy nghĩ.

    Tổ Hoàng nói: “Thấy thì thấy ngay. Nghĩ suy liền trật.”

    Long Đàm ngay khi ấy khai ngộ. Bèn thưa: “Bảo nhiệm [Gìn giữ.] thế nào?”

    Tổ Hoàng nói:

    “Theo Tánh rong chơi

    Tùy duyên phóng khoáng

    Chỉ hết phàm tâm

    Không riêng Thánh giải”.


    Tổ Giáp Sơn có thầy Tiểu Sư theo làm thị giả đã lâu. Tổ bảo đi hành cước, đi các nơi học thiền. Sau nghe Tổ Giáp Sơn nhóm chúng, tiếng đạo vang xa. Thầy Tiểu Sư bèn về thăm và hỏi: “Hòa Thượng có chuyện kỳ đặc như thế, sao chẳng sớm nói cho con?”

    Tổ Sơn nói: “Ông vo gạo thì ta chụm lửa, ông dọn cơm thì ta bày bát. Chỗ nào là ta phụ rẫy ông đâu?”

    Tiểu Sư nghe đó, liền ngộ nhập.

    Đều có thể nói là “Lập tức hóa thành Tri Giác Vô Thượng” đó vậy.



  3. #173
    NỤ Avatar của Thiện Tâm
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    601
    Thanks
    275
    Thanked 229 Times in 156 Posts


    Kinh:

    “Anan, như người thế gian kia gom cái Thấy ở nơi con mắt. Nếu bảo nhắm kín thì tướng Tối hiện ra trước mặt, cả sáu Căn đều tối, đầu và chân cũng thế. Người kia lấy tay rờ quanh ngoài thân thể, thì tuy chẳng thấy, mà vẫn phân biệt được đầu và tay, cái tri giác vẫn đồng như cũ.

    “Cái Thấy nhân nơi Sáng, khi Tối thành ra không thấy. Còn cái Thấy mà không nhân nơi cái Sáng mà vẫn tự phát ra, thì các tướng Tối chẳng bao giờ làm mờ tối đi được. Căn và Trần đã tiêu tan rồi, thì sao tánh Giác Minh không trở thành nhiệm mầu cùng khắp?


    Thông rằng:

    Đoạn trước chỉ bày Tánh Trạm Viên chẳng theo Căn, ở đây chỉ ra Tánh Trạm Viên chẳng nương nơi duyên. Người nhắm mắt kia, lấy tay rờ theo thân thể người khác thì phân biệt được đầu và chân. Cái tri giác trong tối với cái tri giác khi Sáng không khác nhau. Người đời còn chẳng cần mượn cái duyên ánh sáng mà vẫn phân biệt được, huống gì Chân Giác của Thánh Nhân há lại mượn duyên ư ? “Cái Thấy nhân nơi Sáng, khi Tối thành ra không thấy”. Đó là nói theo thế đế. Như vậy là cho rằng cái thể Giác Minh, nhờ có ánh sáng mà sáng, do bởi tối mà thành tối. Nay hãy xem người nhắm kín mắt, chẳng có nhờ Duyên ánh sáng mà vẫn hay biết, trong bóng tối cũng vẫn phân biệt rõ đầu và chân. Cái Thấy này, Sáng không làm cho nó Sáng, Tối không làm cho nó Tối, không ngăn cách nó được. Căn và Trần đã tiêu mất, bèn tay có thể làm mắt, mắt có thể làm tai. Một Căn về gốc, sáu Căn thanh tịnh, làm sao tánh Giác Minh chẳng thành nhiệm mầu tròn khắp?

    Cái Giác Minh từ sáu Căn mà phát ra ấy, phạm vi của cái Sáng giới hạn bởi Căn, nên chẳng thể nhiệm mầu tròn khắp. Duy cái Giác Minh chẳng nương cậy Căn và Trần, mà tự phát ra, đó là thần thông diệu dụng, cảm ứng khắp nơi, đó thật là sáu Căn dùng thay nhau, tức là cái gốc cho ba mươi hai Ứng Thân do Viên Thông của Đức Quán Thế Âm vậy.

    Ngài Vân Nham hỏi Tổ Đạo Ngô: “Đức Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát dùng bao nhiêu tay mắt ấy như thế nào?”

    Tổ Ngô nói: “Như người nửa đêm trở tay rờ cái gối”.

    Ngài Nham nói: “Tôi hiểu”.

    Tổ Ngô nói: “Ông hiểu làm sao?”

    Ngài Nham nói: “Khắp Thân [Biến Thân] là tay, mắt”.

    Tổ Ngô nói: “Nói thì quá lắm, mà chỉ nói được tám tướng thành Đạo”.

    Ngài Vân Nham nói: “Sư huynh nói thế nào?”

    Tổ Ngô nói: “Suốt Thân [Thông Thân] là tay, mắt”.

    Ngài Thiên Đồng tụng rằng:

    “Một khiếu rỗng thông

    Tám mặt cửa song

    Không tướng, không thân, xuân vào luật

    Chẳng ngăn, chẳng ngại, nguyệt trời không

    Mắt quý sạch trong, tay công đức

    Khắp Thân nào giống được Suốt Thân!

    Hiện tiền tay, mắt toàn cơ hiện

    Đại dụng tung hoành, mặc cữ kiêng”.


    Ngài Tuyết Đậu tụng rằng:

    “Khắp Thân phải, Suốt Thân phải

    So ra còn cách mười muôn dặm!

    Cánh bằng che khắp mây lục hợp

    Cuốn gió rền vang bốn biển xanh

    Cái ấy bỗng sao, hề, bụi sanh?

    Trong ấy, mảy tơ, hề, chưa dứt!

    Anh thấy chăng,

    Lưới châu buông xuống, ảnh trùng trùng

    Đầu gậy, tay mắt từ đâu khởi?”.


    Ôi chao! Sao Khắp Thân lại cách Suốt Thân mười vạn dặm? Vì Khắp Thân là chưa lìa được Thân Kiến. Suốt Thân là gồm hết thảy mà quên đi. Chút tơ hào sai khác này, không đầy đủ con mắt thì nào có biện được. Ngài Tuyết Đậu thì tay, mắt đều quên. Còn Ngài Thiên Đồng chẳng ngại cơ duyên cùng diệu dụng, nên huyền lại càng huyền vậy.



  4. #174
    NỤ Avatar của Thiện Tâm
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    601
    Thanks
    275
    Thanked 229 Times in 156 Posts


    B. ĐÁNH CHUÔNG ĐỂ THỂ HIỆN TÍNH THƯỜNG


    1. NGHI CĂN TÁNH KHÔNG CÓ TỰ THỂ

    Kinh:

    Anan bạch Phật rằng: “Thưa Thế Tôn, như lời Phật dạy, muốn cầu được thường trụ, thì phải ở từ Nhân Địa là Giác Tâm, và những danh mục tu chứng phải cần tương ưng với quả vị. Thưa Thế Tôn, như trong quả vị đó, thì bảy danh hiệu là Bồ Đề, Niết Bàn, Chân Như, Phật Tánh, Am Ma La Thức, Không Như Lai Tạng, Đại Viên Cảnh Trí, tuy tên gọi khác nhau, nhưng Thể Tánh là trong sạch tròn đầy, vững chắc như Kim Cương Vương, thường trụ chẳng hoại.

    “Nếu cái Thấy Nghe này lìa ngoài cái sáng, cái tối, cái động, cái tĩnh, cái thông bít thì rốt ráo không có tự thể; cũng như cái tâm niệm rời ngoài Tiền Trần vốn không chỗ có, thế thì tại sao lại lấy cái rốt ráo là đoạn diệt này mà làm Nhân Địa để tu cho được bảy quả đức Thường Trụ của Như Lai? Thưa Thế Tôn, nếu lìa ngoài sáng và tối, thì cái thấy của tâm niệm diệt mất. Tới lui qua lại, suy xét chín chắn, thì vốn không có Tâm tôi và cái Tâm Sở của tôi, vậy lấy gì làm Nhân Địa để cầu Vô Thượng Giác? Đức Như Lai trước kia có nói cái Tánh trong lặng tròn đầy thường trụ, nay lời nói khác nhau, hóa thành hý luận. Đâu là lời chân thực của Như Lai. Xin Thế Tôn rủ lòng đại từ, mở chỗ mê chấp cho tôi.


    Thông rằng:

    Ông Anan cho cái Nhân là Nhân Thực, cái Quả là Quả Thực, nên cho là lìa ngoài Trần không có tự thể, lìa ngoài Niệm không có Tâm: nghi là đoạn diệt. Đó là vì ông chưa từng biết rằng cái Tâm đối với Cảnh nguyên thuộc về sanh diệt, là sanh diệt thì có thể đoạn, còn cái Tâm lìa Cảnh, không thuộc sanh diệt, nên chưa từng đoạn được. Cái Tánh trong lặng tròn đầy thường trụ rốt ráo là vô sở đắc, xem xét nhặt nhiệm thì vốn không có Tâm ta, cùng với Tâm Sở của ta. Lấy cái ấy làm Nhân, thì đó là Chánh Nhân; lấy cái ấy chứng quả, thì đó là Chân Quả. Cái Tánh trong lặng tròn đầy thường trụ vốn là như thế, sao lại nghi ngờ là mâu thuẫn ư? Vốn là một Tánh mà có bảy thứ tên gọi.

    Kinh Bảo Tích nói: Không Như Lai Tạng lìa tất cả phiền não của tâm thức không giải thoát. Bất Không Như Lai Tạng đầy đủ hằng sa Pháp không thể nghĩ bàn của Phật Trí giải thoát. Không Bất Không Như Lai Tạng tùy hiện sắc không, ứng khắp tất cả.

    Không Như Lai Tạng là Quả Thường Trụ. Đại Viên Cảnh Trí thấy rõ tất cả mà không phân biệt. Am Ma La Thức phân biệt tất cả mà không nhiễm trước. Vì rõ ràng thấu suốt nên gọi là Phật Tánh. Rõ ràng thấu suốt là cứu cánh Giác, nên gọi là Bồ Đề. Cứu cánh Giác, Thể vốn Tịch Diệt, nên gọi là Niết Bàn. Tịch Diệt nên hết thảy vọng tâm không chạm tới được, nên gọi là Chân Như. Bảy quả đức vốn là một Thể vậy.

    Sơ Tổ Đạt Ma chỉ dùng tám chữ bao quát đầy đủ hết. Đó là : “Tịnh Trí Diệu Viên, Thể Tự Không Tịch”. Tịnh là Bạch Tịnh Thức. Trí là Đại Viên Cảnh Trí. Không là Không Như Lai Tạng. Tịch là Niết Bàn. Còn Chân Như, Bồ Đề, Phật Tánh, không ngoài hai chữ Diệu Viên. Hai chữ Diệu Viên tức là phân biệt mà chẳng phân biệt, sanh diệt mà chẳng sanh diệt, đó là Tánh Giác Như Như tròn khắp vậy.

    Có nhà sư hỏi Tổ Hoàng Bá: “Thế nào là Đạo? Thế nào là tu hành?”

    Tổ Bá đáp: “Đạo là vật gì mà ông muốn tu hành?”

    Hỏi: “Tông sư các nơi truyền nhau tham thiền học đạo như thế nào?”

    Tổ Bá nói: “Lời tiếp dẫn hạng độn căn, chưa thể nương dựa được”.

    Hỏi: “Ấy đã là lời tiếp dẫn hạng độn căn, còn chưa rõ là tiếp hạng thượng căn thì nói pháp gì?”

    Tổ Bá nói: “Nếu là người thượng căn, thì chỗ nào mà đến Đạo, tìm Đạo? Cái Tự Mình còn bất khả đắc, huống là có riêng pháp để tìm cầu? Chẳng thấy trong kinh nói, “Các pháp có hình trạng gì?”, sao?”

    Hỏi: “Nếu như thế kia, ắt chẳng cần tìm kiếm gì hết thảy?”

    Tổ Bá nói: “Như thế ấy thì chẳng hao tâm lực”.

    Hỏi: “Nếu như thế thì thành đoạn diệt, chẳng phải là không có ư?”

    Tổ Bá nói: “Ai bảo cái ấy không có. Nhưng cái đó là gì mà ông định tìm kiếm nó?”

    Hỏi: “Đã chẳng cho tìm kiếm, cớ sao lại còn nói chẳng đoạn lìa nó?”

    Tổ Bá nói: “Chẳng tìm kiếm, tức bèn thôi nghỉ. Ai bảo ông đoạn lìa? Ông thấy hư không trước mắt đó, làm sao đoạn lìa nó?”

    Hỏi: “Có phải pháp ấy đồng như hư không chăng?”

    Tổ Bá nói: “Hư không có bao giờ nói với ông là đồng hay khác gì đâu. Ta mới tạm nói thế, ông lại ngay liền ở trong ấy mà sanh tri giải”.

    Hỏi: “Vậy nên chẳng cho người sanh tri giải ư?”

    Tổ Bá nói: “Ta không hề ngăn chướng ông. Nhưng tri giải là thuộc Tình, Tình sanh thì Trí cách”.

    Hỏi: “Hướng vào trong ấy mà chẳng sanh tình, thế có đúng không?”

    Tổ Bá nói: “Như chẳng sanh tình, thì ai nói là đúng?”

    Thế mà hơn ngàn năm rồi, vẫn còn có cái nghi như của Ông Anan, nếu được vài lời của Ngài Hoàng Bá, bèn cùng trùng tuyên cái chỉ thú sâu xa!



  5. The Following User Says Thank You to Thiện Tâm For This Useful Post:

    Phúc Hạnh (09-14-2015)

  6. #175
    NỤ Avatar của Thiện Tâm
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    601
    Thanks
    275
    Thanked 229 Times in 156 Posts


    2. CHỈ BÀY TÁNH NGHE LÀ THƯỜNG TRỤ


    Kinh:

    Phật bảo Ông Anan: “Ông học đa văn, chưa dứt hết sạch các lậu. Trong tâm chỉ biết suông cái nhân điên đảo, mà cái điên đảo thật sự ở trước mắt, lại chưa biết được. E rằng ông thật sự còn chưa tin phục, nay ta thử đem các chuyện trần tục để giải trừ cái nghi của ông”.

    Liền đó, Như Lai ra lệnh cho La Hầu La đánh một tiếng chuông, rồi hỏi Ông Anan: “Nay ông có nghe không?”

    Ông Anan và đại chúng đều nói: “Có nghe”.

    Chuông hết kêu, không còn tiếng. Phật lại hỏi: “Nay ông có nghe không?”

    Ông Anan và đại chúng đều nói : “Không nghe”.

    Khi ấy La Hầu La lại đánh một tiếng chuông.

    Phật lại hỏi : “Nay ông có nghe không?”

    Ông Anan và đại chúng lại đều nói : “Có nghe”.

    Phật hỏi Ông Anan: “Theo ông, thế nào là nghe, thế nào là không nghe?”

    Ông Anan cùng đại chúng đều bạch Phật rằng: “Tiếng chuông nếu có đánh thì chúng tôi được nghe. Đánh lâu hết tiếng, âm vang đều không còn, thì gọi là không nghe”.

    Như Lai lại bảo Ông La Hầu La đánh chuông, rồi hỏi Ông Anan: “Theo ông, hiện giờ có tiếng không?”

    Ông Anan và đại chúng đều nói : “Có tiếng”.

    Ít lâu tiếng hết, Phật lại hỏi rằng : “Theo ông, hiện giờ có tiếng không?”

    Ông Anan và đại chúng đều đáp : “Không có tiếng”.

    Lát sau, Ông La Hầu La lại đánh tiếng chuông; Phật lại hỏi: “Theo ông nay có tiếng không?”

    Anan và đại chúng đều nói : “Có tiếng”.

    Phật hỏi Ông Anan : “Theo ông, thế nào là có tiếng, thế nào là không tiếng?”

    Ông Anan và đại chúng đều bạch Phật rằng : “Chuông nếu có đánh thì có tiếng chuông. Đánh lâu tiếng hết, âm vang đều không còn, thì gọi là không tiếng”.

    Phật bảo Ông Anan và đại chúng rằng : “Nay cớ sao các ông nói trái ngược, lộn xộn thế?”

    Đại chúng và Ông Anan cùng bạch Phật : “Cớ sao giờ đây chúng tôi bị gọi là trái ngược, lộn xộn?”

    Phật dạy : “Ta hỏi ông sự Nghe, thì ông bảo là Nghe. Hỏi ông cái Tiếng, thì ông nói là Tiếng. Chỉ có sự Nghe và cái Tiếng mà trả lời không nhất định, như thế không gọi là trái ngược lộn xộn sao được?

    “Anan! Tiếng kêu không còn vang, thì ông nói là không Nghe. Nếu thật không Nghe, nghĩa là Tánh Nghe đã diệt, giống như cây chết khô, vậy khi tiếng chuông lại đánh lên, làm sao ông còn biết được? Biết rằng có, biết rằng không, đó là cái Tiếng của Trần hoặc có hoặc không, chứ Tánh Nghe đó, há vì ông mà có hoặc không ư? Tánh Nghe nếu thật là không có, thì còn cái gì biết là không có?

    “Thế nên, Anan, cái Tiếng ở trong cái Nghe tự có sanh có diệt, không phải vì ông nghe cái Tiếng Sanh cái tiếng diệt, mà khiến cho Tánh Nghe ông ông thành có, thành không. Ông còn điên đảo, lầm cái Tiếng là cái Nghe, lạ gì chẳng mê mờ mà lấy cái thường làm cái đoạn. Trọn chẳng nên nói rằng, lìa ngoài các thứ động tịnh, đóng bít, mở thông thì cái Nghe không có tự tánh.

    “Như người ngủ mê trên giường gối, khi ấy trong nhà có người giã gạo. Người ấy trong mộng, nghe tiếng giã gạo, lầm cho là vật gì khác, hoặc cho là đánh trống, hoặc cho là đánh chuông. Ngay trong khi mộng, người ấy cũng lấy làm lạ sao tiếng chuông lại vang lên như tiếng vang của cây, của đá. Khi chợt tỉnh dậy, liền biết là tiếng chày, bèn nói với người nhà : “Khi tôi đang nằm mộng, lầm tiếng chày này là tiếng trống”. Này Anan, người ấy ở trong mộng nào còn nhớ các thứ động tĩnh, mở đóng, thông bít. Thế thì thân thể tuy ngủ mà tánh Nghe chẳng mờ. Dầu thân ông có tiêu tan mất, thân mạng đổi dời, Tánh ấy làm sao vì ông mà tiêu diệt được?

    “Bởi vì chúng sanh từ vô thủy đến nay, đeo đuổi theo hình theo tiếng, chạy theo niệm mà lưu chuyển, không từng khai ngộ Bản Tánh trong sạch, nhiệm mầu, vĩnh cửu. Không theo cái thường còn ấy, mà chạy tìm các thứ sanh diệt, bởi thế đời này sang đời khác cứ dơ trộn mà lưu chuyển. Chỉ bỏ đi chuyện sanh diệt, giữ lấy Tánh Chân Thường, thì cái ánh sáng thường trụ hiện ngay trước mắt, mọi thứ căn, trần, tâm thức tức thì tiêu mất.

    “Tướng vọng tưởng là trần, thức tình là cấu. Hai thứ ấy một lúc xa lìa, thì con mắt Pháp của ông ngay liền trong sáng. Thế thì sao không thành Tri Giác Vô Thượng?”



    Lần sửa cuối bởi Thiện Tâm; 09-14-2015 lúc 08:54 PM

  7. The Following User Says Thank You to Thiện Tâm For This Useful Post:

    Phúc Hạnh (09-14-2015)

  8. #176
    NỤ Avatar của Thiện Tâm
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    601
    Thanks
    275
    Thanked 229 Times in 156 Posts


    Thông rằng
    :

    Đức Phật dạy, “Thoát khỏi sự dính, phục vào bên trong”, tức là Tánh lặng trong tròn đầy, thường trụ vậy. Ông Anan nghi rằng lìa ngoài tiền trần thì không có tự tánh, sợ là đồng với đoạn diệt, bởi vậy, ngay nơi tiếng chuông mà hiển Tánh Nghe. Cái Tiếng tan mất không còn âm vang, thì chỉ là không có Tiếng chứ thật không phải là không có cái Nghe. Cái Tiếng thì có sanh diệt, cái Nghe thì không có sanh diệt. Nếu nói cái Nghe do cái Tiếng mà sanh, do cái Tiếng mà diệt, thì đang khi không nghe, ai biết là không nghe? Do đó, cái hoặc có hoặc không thì có thể diệt, còn cái Biết Có Biết Không ấy chưa từng diệt vậy. Chẳng những khi tỉnh thức đối cảnh thì chẳng diệt, mà ngay khi ngủ nằm mộng, lìa tiền cảnh cũng chẳng có sanh diệt. Chẳng những khi ngủ nằm mộng căn vẫn còn thì chẳng diệt, mà khi thân thể mất rồi, căn tiêu tan hết cũng chẳng có diệt. Chỗ này so với “Cái thấy sông [Phần II. Đoạn vua Ba Tư Nặc]” ở đoạn trước cũng tương tự. Ở trước, hiển bày cái Thấy, là ý nghĩa về chỗ chẳng sanh chẳng diệt. Còn ở đây hiển bày cái Nghe, ý để chỉ cái Nhĩ Căn viên thông vậy.

    Xoay ngược lại cái Nghe để nghe tự tánh, tức là khai ngộ Bản Tánh trong sạch, nhiệm mầu, thường hằng. Ánh sáng thường trụ hiện ngay trước mặt, tức đó là cái Tịch Diệt hiện tiền. Da thịt lột thoát hết, chỉ có một cái Chân Thực. Như thế mới có thể gọi là con mắt Pháp sáng trong, thành Vô Thượng Giác.

    Ông Đỗ Hồng Tiệm hỏi thiền sư Vô Trụ ở chùa Bảo Đường rằng : “Đệ tử nghe Hòa Thượng Kim nói: Không nhớ, không niệm, chớ vọng. Pháp môn ba câu, có phải không?”

    Sư đáp: “Phải”.

    Ông Đỗ hỏi: “Ba câu ấy là một hay ba?”

    Sư nói: “Không nhớ là giới, không niệm (vô niệm) là Định, chớ vọng là Huệ. Một Tâm chẳng sanh, đó là Giới Định Huệ, chẳng phải một, chẳng phải ba”.

    Ông Đỗ lại hỏi : “Thầy có dùng ba câu ấy để tiếp người không?”

    Sư nói : “Người học nhân sơ tâm, thì còn khiến họ dứt niệm, dừng làn sóng thức, nước trong thì cảnh hiện, ngộ cái Thể Vô Niệm, Tịch Diệt hiện tiền, lúc ấy vô niệm cũng chẳng còn lập”.

    Khi ấy, trên cây trước sân có tiếng quạ kêu.

    Ông Đỗ hỏi : “Thầy có nghe không?”

    Sư nói: “Nghe”.

    Quạ bay đi mất, lại hỏi : “Thầy có nghe không?”

    Sư nói: “Nghe”.

    Ông Đỗ nói: “Quạ bay đi rồi, đâu còn tiếng, sao nói là nghe?”

    Thiền sư bèn dạy cả đại chúng rằng: “Đời Phật khó gặp, Chánh Pháp khó nghe! Mỗi người hãy lóng nghe kỹ! Có nghe, không nghe, đều chẳng liên quan gì đến Tánh Nghe. Xưa nay chẳng sanh, sao từng có diệt? Khi có Tiếng, đó là cái Tiếng của Trần tự sinh, khi không có tiếng, đó là cái Tiếng của Trần tự diệt, nhưng cái Tánh Nghe này, chẳng theo Tiếng mà sanh, chẳng theo Tiếng mà diệt. Ngộ Tánh Nghe này thì khỏi tiếng tăm của Trần ràng buộc. Phải biết cái Nghe không có sanh không có diệt, cái Nghe không có chuyện đến, đi”.

    Ông Đỗ và đại chúng cúi đầu vâng lãnh.

    Ông Đỗ lại hỏi: “Sao là chẳng sanh, sao là chẳng diệt, như thế nào được giải thoát?”

    Thiền sư nói: “Thấy Cảnh, tâm chẳng khởi là chẳng sanh. Chẳng sanh tức là chẳng diệt! Đã không sanh diệt thì nào có bị tiền trần trói buộc? Ngay đây là Giải Thoát. Chẳng sanh là vô niệm, vô niệm thì không sanh diệt. Vô niệm là không buộc, vô niệm là không thoát. Rốt ráo là : Biết Tâm là lìa Niệm, Thấy Tánh là giải thoát. Ngoài Biết Tâm, Thấy Tánh mà lại có pháp môn chứng Bồ Đề Vô Thượng, thật không thể có”.

    Ông Đỗ hỏi: “Sao gọi là Biết Tâm, Thấy Tánh?”

    Thiền sư nói: “Hết thảy người tu học, theo niệm mà trôi dạt, đều vì chẳng biết Chân Tâm. Cái Chân Tâm ấy, niệm sanh cũng chẳng thuận theo mà sanh, niệm diệt cũng chẳng nương theo mà mất. Chẳng đi chẳng đến, chẳng định chẳng loạn, chẳng nắm chẳng bỏ, chẳng nổi chẳng chìm. Vô vi, vô tướng, sống động lưu thông, bình thường, tự tại. Tâm Thể ấy rốt ráo bất khả đắc, không thể lấy tri thức mà biết, chạm mắt đều là Như, không có gì là chẳng phải thấy Tánh”.

    Ông Đỗ và đại chúng làm lễ, xưng tán, vui mừng hớn hở mà đi.

    Ngài Bảo Đường, diễn lại Lăng Nghiêm, xét xem lời nói như cùng một miệng thuyết ra.

    Chỉ có Tổ Vân Môn, chỗ thấy lại khác. Tổ thượng đường, nghe tiếng chuông, liền nói: “Thế giới rộng rãi thế kia, cớ sao nghe tiếng chuông lại mặc áo thất điều?”

    Đối với chỗ này mà chẳng có chút nghi, mới gọi là Pháp Nhãn [Một trong ngũ nhãn. Xem xét thấu biết rõ ràng cái duyên sanh ra cái pháp sai khác nhau.] thanh tịnh.



  9. The Following User Says Thank You to Thiện Tâm For This Useful Post:

    Phúc Hạnh (09-14-2015)

  10. #177
    NỤ Avatar của Thiện Tâm
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    601
    Thanks
    275
    Thanked 229 Times in 156 Posts


    PHẦN THỨ HAI: PHẦN CHÁNH TÔNG

    CHƯƠNG II: NƯƠNG CHỖ NGỘ MÀ TU

    MỤC MỘT: NÊU RA CÁI CĂN ĐỂ CHỈ CHỖ MÊ

    I. XIN KHAI THỊ CÁCH CỞI NÚT

    Kinh:

    Ông Anan bạch Phật rằng: “Thưa Thế Tôn, tuy Như Lai đã dạy Nghĩa Quyết Định Thứ Hai, nhưng nay tôi xem những người mở nút trong thế gian, nếu không biết đầu mối của nút ở đâu, thì tôi tin là người ấy rốt cuộc không thể mở được. Thưa Thế Tôn, tôi và hàng Thanh Văn Hữu Học trong hội cũng giống như vậy. Từ vô thủy đến nay, chúng tôi cũng với các thứ Vô Minh cùng sanh cùng diệt. Tuy được căn lành đa văn như thế này, mang tiếng là xuất gia nhưng cũng như người sốt rét cách nhật! Xin nguyện Đức Đại Từ thương xót kẻ chìm đắm mà chỉ bày cho, giờ đây chính nơi thân tâm thế nào là nút, do đâu mà mở? Cũng khiến cho chúng sanh khổ nạn đời vị lai được khỏi luân hồi, không rớt vào ba cõi”.

    Nói lời ấy rồi, Ông Anan và cả đại chúng năm vóc gieo xuống đất, khóc lóc thành khẩn, mong chờ lời khai thị vô thượng của Như Lai.

    Thông rằng:

    Đoạn trước, Ông Phú Lâu Na đã hỏi: “Hết thảy chúng sanh, do đâu mà có vọng khiến tự mình che khuất tánh Diệu Minh, mà chịu sự chìm đắm?” Ở đây Ông Anan hỏi: “Giờ đây, chính nơi thân tâm, thế nào là nút, thế nào là mở?” Đó là đều muốn đi đến cùng cực cái vọng căn, nghiên cứu nhỏ nhiệm cái vô minh câu sanh, mới biết đầu gốc thắt nút mà phá trừ đi vậy.

    Đoạn trước, đáp rằng: “Biết rõ cái Mê là không có nguyên nhân, thì cái Vọng cũng không có chỗ nào nương dựa. Còn không có chỗ sanh ra, muốn diệt dứt chỗ nào?” Ở đây thì đáp: “Tướng Phần và Kiến Phần không có tự tánh, cũng như các nhánh lau gác lên nhau. Xét cái tánh giao nhau đó, thì không và có đều là chẳng phải”.

    Trước nói, “Tánh điên tự hết, hết tức Bồ Đề”. Đây nói, “Thấy biết mà không có thấy biết, đó chính là Niết Bàn”. Trước sau suốt thông như một. Chỉ là ở trước thuộc về Kiến Đạo, biết Vọng tức là Giác, Giác tức Bồ Đề. Còn đây là phần Tu Đạo, lìa cái Thấy tức là Không, Không tức là Niết Bàn.

    Nút là sự trói buộc nơi Căn Trần do mê, nên chìm sâu sanh tử. Mở là sự thoát khỏi Căn Trần do ngộ, nên thấy biết cái Diệu Thường. Đây là theo căn Tai mà nghe ngược trở lại, thoát khỏi sự dính kết mà quay về bên trong, nhiếp phục tâm bám nắm, nhập Tri Kiến Phật, thuộc về công phu tu tập, nên gọi là Nghĩa Thứ Hai.

    Có nhà sư hỏi Tổ Thạch Đầu: “Như thế nào là Giải Thoát ?”

    Tổ Đầu nói: “Ai trói buộc ông?”

    Hỏi: “Như thế nào là Tịnh Độ?”

    Tổ Đầu nói: “Ai làm dơ ông?”

    Hỏi: “Như thế nào là Niết Bàn?”

    Tổ Đầu nói: “Ai đem sanh tử lại cho ông?”

    Nếu nơi đây mà được liền cái chỗ an lạc, thì còn hướng chi đến cái đệ nhị đầu mà làm kế sanh nhai!



  11. #178
    NỤ Avatar của Thiện Tâm
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    601
    Thanks
    275
    Thanked 229 Times in 156 Posts


    II. MƯỜI PHƯƠNG NHƯ LAI ĐỒNG MỘT LỜI CHỈ THỊ: SÁU CĂN LÀ ĐẦU NÚT SANH TỬ VÀ NIẾT BÀN


    Kinh:

    Bấy giờ, Thế Tôn thương xót Ông Anan và hàng Hữu Học trong hội, và cũng vì tất cả chúng sanh đời vị lai mà tạo cái nhân xuất thế, làm cái đạo nhãn tương lai. Ngài lấy tay sáng ngời xoa đỉnh đầu Ông Anan. Tức thời, trong khắp các thế gian của Chư Phật mười phương rung động sáu cách. Các Đức Như Lai nhiều như vi trần trụ các thế giới, mỗi Ngài đều có ánh sáng báu từ đỉnh đầu phóng ra. Các hào quang đó cùng lúc từ các cõi kia đến rừng Kỳ Đà, chiếu soi đỉnh đầu Như Lai. Tất cả đại chúng liền được cái chưa từng có.

    Trong lúc đó, Ông Anan và cả đại chúng đều nghe các Đức Như Lai nhiều như vi trần trong mười phương, vô số miệng khác nhau đều dùng một lời, dạy Ông Anan: “Lành thay, Anan! Ông muốn biết cái câu sanh vô minh, khiến ông lưu chuyển, cái căn mối nút sanh tử. Đó chính là sáu Căn của ông, chứ chẳng phải vật gì khác! Ông lại muốn biết Bồ Đề Vô Thượng, khiến chóng chứng Tánh Diệu Thường an lạc, giải thoát, tịch tịnh thì cũng chính là sáu Căn của ông, chứ chẳng phải vật gì khác”.

    Ông Anan tuy nghe pháp âm như thế, tâm còn chưa rõ, cúi đầu bạch Phật : “Làm sao cái khiến cho tôi luân hồi sanh tử hoặc an lạc diệu thường cũng chính là sáu Căn, chứ không phải vật nào khác?”


    Thông rằng:

    Trước kia, Ông Anan có nói “Tâm tôi nào chỉ cúng dường Như Lai, mà cho đến ứng khắp hằng sa quốc độ, phụng sự Chư Phật và các thiện tri thức, phát tâm đại dũng mãnh làm tất cả những sự việc khó làm, là đều dùng tâm này. Cho dù hủy báng pháp mà vĩnh viễn lui sụt thiện căn, cũng là do cái tâm này”.

    Tâm đã không hai như thế, thì sáu Căn cũng không hai, cớ sao lại sáng ở nơi kia mà tối ở đây ư? Chỉ là sáu Căn này đấy thôi. Thuận theo đó mà xuất ra, thế là trái với Giác hợp với Trần : liền vào ngay dòng sanh tử. Nghịch lại mà nhập vào, trái với Trần hợp với Giác : tức là ở trong cái chẳng sanh diệt. Giống như sấp tay, ngửa tay! Xưa nay Như Lai không hề nói khác!

    Thiền sư Bàn Am Thành thượng đường nói:

    “Một niệm tâm thanh tịnh

    Phật ở Ma Vương điện

    Một niệm tâm ác sanh

    Ma Vương vào Phật điện”.


    Thiền sư Hoài nói rằng: “Chỉ như thế mà tin lấy. Đó gọi là chân dẫm lên Thật Địa mà đi, rốt là không có pháp nào khác, cũng không có đạo lý nào khác. Lão tăng bày thẳng ra như thế, chỉ sợ rằng các ông thấy thỏ thả ưng, khắc thuyền tìm kiếm! Sao vậy? Thần lành, quỷ ác thì chủ nhân có trí đều không lãnh thọ”.

    Nhưng thiền sư Đại Mai Thường nghe tiếng kêu của con sóc cánh, bèn nói : “Tức là vật ấy, chẳng phải vật nào khác. Tất cả các ông hãy khéo tự hộ trì”.

    Nói xong, thị tịch.

    Thiền sư Vĩnh Minh Thọ ca ngợi rằng :

    “Sư khi mới đắc Đạo

    Thì, tức Tâm là Phật

    Sau rốt dạy đồ chúng

    Vật ấy, không vật khác

    Cùng tột nguồn vạn pháp

    Thấu đến xương ngàn Thánh

    Chân vốn chẳng đổi dời

    Ngại gì chuyện còn, mất”.


    Tin được rằng Ngài Đại Mai cùng tiếng kêu của con sóc cánh không khác, thì còn có sanh tử Niết Bàn nào khác nhau ư?



  12. #179
    NỤ Avatar của Thiện Tâm
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    601
    Thanks
    275
    Thanked 229 Times in 156 Posts


    III. THẤY RÕ TÁNH CỦA MỐI NÚT ĐỂ TỨC THỜI GIẢI THOÁT


    Kinh:

    Phật bảo Ông Anan: “Căn, Trần cùng nguồn. Trói mở không hai. Tánh của Thức là hư vọng, cũng như hoa đốm giữa hư không. Anan, do cái Trần mà phát ra cái biết, nhân cái Căn mà có cái Tướng. Cả Tướng Phần và Kiến Phần đều không có tự tánh, giống như các nhánh lau gác lên nhau.

    Thông rằng:

    Căn thuộc về Kiến Phần, Trần thuộc Tướng Phần. Chỉ đều do một niệm vô minh làm dính kín tánh trong lặng mà phát khởi, nên gọi là đồng nguồn. Chỉ ở nơi đầu nguồn mà xem thấy, thì Kiến Phần và Tướng Phần chưa thành hình, lúc ấy Căn, Trần ở đâu mà có?

    Từ lúc Căn hợp với Trần mà trôi xuôi thì gọi là buộc. Từ lúc Căn ngược với Trần mà trở về nguồn, thì gọi là mở. Cái trói chính là sáu Căn, chứ không phải vật gì khác. Cái mở cũng là sáu Căn, chứ không còn vật gì khác. Thể vốn không hai vậy. Trong cái Thể không hai này mà soi xét, thì trói buộc chẳng là dơ, cởi mở chẳng là sạch. Nơi Thể không hai đó, chưa từng có thêm bớt, đó là Căn, Trần vốn đồng nguồn vậy, ai thấy là khác được? Trói, mở vốn không hai, ai thấy được là hai?

    Sở dĩ phân biệt chia tách, là do cái Thức vậy. Thức này hư vọng mà phân biệt, cũng như dụi mắt mà vọng thấy có không-hoa. Vốn nào có Căn, Trần lại vọng thấy Căn, Trần. Vốn nào có trói, mở mà vọng thấy trói, mở. Biết rõ cái Thức này, có cũng như do dụi mắt, bèn chuyển Thức về nguồn, thì con mắt trong sáng, nên chóng chứng an lạc giải thoát, Tịch Tịnh Diệu Thường. Chẳng phải ở nơi Căn mà quay lại, nhưng ở nơi Thức mà chuyển. Sao gọi là Thức hư vọng giống như hoa đốm? Chẳng phải bảo là lìa cái Thức tánh hư vọng mà riêng có cái gọi là Tịch Tịnh Diệu Thường đâu. Chỉ cần tin cái Thức là hư vọng, thì Diệu Thường ở ngay nơi Thức. Chỉ cần tin hoa đốm không tự tánh, thì con mắt sáng trong ở ngay tại không-hoa.

    Bởi thế, do Trần mà phát ra Thức, chứ Thức chẳng tự sanh. Nhân Căn mà có Tướng, chứ Tướng không tự có. Ba cái Căn, Trần, Thức giao nhau mà lập, mà hợp, như lau gác lên nhau, vốn không tự tánh. Cho tánh giao nhau là có thật, thì khi chưa giao nhau sao lại không có?

    Cho tánh giao nhau là không có, thì khi đã gác lên nhau, làm sao lại có? Đã chẳng phải là tánh Không, lại chẳng phải là tánh Có, nên nói là không có tánh. Tướng Phần và Kiến Phần, cả hai đều không có tự tánh, hiện thể bèn là vô sanh. Cho nên, biết rằng trong cái Căn mối nút sanh tử tự sẵn đủ Tịch Tịnh Diệu Thường vậy. Thế, chẳng đủ để tin rằng trói buộc hay cởi mở là không hai sao?

    Tổ Thạch Đầu dạy chúng rằng: “Pháp môn của ta, Phật trước truyền thọ, chẳng luận thiền định, tinh tấn, độc chỉ thấu đạt Tri Kiến của Phật. Tức Tâm là Phật. Tâm, Phật, chúng sanh, Bồ Đề, phiền não: tên khác mà một thể. Các ông phải biết, cái Tự Kỷ tâm linh, thể lìa thường đoạn, tánh nó chẳng dơ sạch, lặng tròn đủ như nhiên. Phàm Thánh đồng đều, ứng dụng khắp cả, lìa tâm, ý, thức. Ba cõi, sáu đường, duy tự tâm hiện. Trăng dưới nước, bóng trong gương, nào có sanh, diệt? Các ông mà biết được nó thì có chỗ nào mà chẳng đầy đủ?”

    Đây là Đệ Nhất Nghĩa Tối Thượng vậy.

    Chỗ nói, “Bồ Đề, phiền não, khác tên mà một thể”, chẳng phải là “Căn, Trần đồng nguồn” ư? Chỗ nói, “Thể lìa đoạn thường, tánh nó chẳng dơ sạch”, chẳng phải là chỗ nói “Trói mở không hai” đấy sao? Chỗ nói, “Ba cõi sáu đường, duy tự tâm hiện; trăng trong nước, bóng trong gương, nào có sanh diệt”, chẳng phải là chỗ “Tướng Phần, Kiến Phần không có tánh, cũng như hình cây lau gác nhau” đấy sao? Hình lau gác nhau, hoa đốm giữa hư không, cũng không có sanh diệt. Thế nên biết rằng Thức tánh là hư vọng, bèn An Lạc Giải Thoát đó.



  13. #180
    NỤ Avatar của Thiện Tâm
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    601
    Thanks
    275
    Thanked 229 Times in 156 Posts


    Kinh:

    “Thế nên, giờ đây chính nơi Thấy Biết mà lập ra Tướng có Thấy Biết, đó là cội gốc Vô Minh. Chính nơi Thấy Biết mà chẳng có Tướng Thấy Biết, đó là Niết Bàn chân tịnh, vô lậu. Làm sao trong ấy lại còn có vật gì khác!”

    Khi ấy, Thế Tôn muốn lập lại nghĩa này mà nói bài kệ:


    Thông rằng:

    “Trong thấy biết mà lập ra tướng thấy biết”, nghĩa là “Nhân cái Minh mà lập ra cái Sở”. Do đó, biết rằng cái căn bản Vô Minh, cái gốc của sự thắt nút, cái căn mối nút sanh tử chính là cái Thức vậy, mà chẳng phải chỉ là Căn. Thấy biết mà không có tướng thấy biết, tức là “Thấy do lìa cái thấy, Thấy ấy là siêu việt”. Thế nên, phải biết rằng giải thoát khỏi cái thấy biết đó là cái quả vô lậu, đó là Tịch Tịnh Diệu Thường, là chuyển Thức thành Trí vậy, chứ cũng chẳng phải chỉ là Căn. Bởi thế, trong bài kệ ở sau tụng rằng “Thức A Đà Na vi tế” hiển bày đầy đủ Căn và Thức không hai.

    Thiền sư Thùy Lộc An thường đọc kỹ càng chỗ này: “Tri Kiến lập Tri, tức Vô Minh bổn. Tri Kiến Vô Kiến, ấy tức là Niết Bàn”. Rỗng nhiên khai ngộ, thường đọc tụng luôn.

    Học trò bảo rằng: “Nên lấy bốn chữ làm câu!”

    Ngài nói: “Đây là chỗ ngộ của ta, không thể chuyển đổi!”

    Thời ấy gọi Ngài là An Lăng Nghiêm.

    Khi thị tịch, đọc kệ rằng:

    “Chẳng thể đầu non mang lại được

    Há từ Kê Túc truyền mai sau [Núi Kê Túc, nơi Đức Ca Diếp, vị được Đức Thích Ca truyền chánh pháp nhãn tạng làm vị Tổ đầu tiên của Thiền Tông, ngồi nhập định chờ Đức Phật Di Lặc tương lai]

    Từ xưa Hiền Thánh đều như thế

    Há nay đặt chuyện với ông đâu?”.


    Phó chúc xong, tự mình bước vào trong hòm, nằm nghiêng bên hữu.

    Trải qua ba ngày, đệ tử mở quan tài khóc lóc, bèn trỗi dậy lên tòa thuyết pháp, quở trách răn dạy: “Còn mở nắp hòm của ta thì không phải là đệ tử của ta”.

    Rồi bước vào trong hòm đi luôn.

    Nếu chẳng được vô lậu chân tịnh, làm sao đến đi tự do như thế?



Thông tin chủ đề

Users Browsing this Thread

Hiện có 1 người đọc bài này. (0 thành viên và 1 khách)

Quyền viết bài

  • Bạn không thể gửi chủ đề mới
  • Bạn không thể gửi trả lời
  • Bạn không thể gửi file đính kèm
  • Bạn không thể sửa bài viết của mình
  •