Kinh :
“Anan, nay ông muốn cho cái Thấy, Nghe, Hay, Biết vĩnh viễn khế hợp với Thường Lạc Ngã Tịnh của Như Lai, thì trước hết phải lựa bỏ gốc rễ sanh tử, y theo cái Không Sanh Diệt, thì Tánh trong lặng toàn khắp thành tựu. Dùng cái trong lặng này, mà xoay các thứ Sanh Diệt hư vọng trở về Bổn Giác. Được Tánh không sanh diệt của Bản Giác thuần sáng làm cái Tâm Nhân Địa, như thế mà sau viên thành Quả Địa Tu Chứng. Như lóng nước đục, đựng trong một món đồ để yên lặng, để yên lặng thâm sâu bất động, thì đất cát tự chìm lắng xuống. Nước trong hiện ra ngay trước mặt, gọi là bắt đầu dẹp phục phiền não khách trần. Bỏ hết bùn chỉ còn nước trong, gọi là vĩnh viễn dứt lìa căn bản vô minh. Sáng suốt tinh thuần, tất cả các biến hiện không còn là phiền não, đều hợp với diệu đức trong sạch Niết Bàn.
Thông rằng :
Sách Đại Học có câu : “Biết Chỉ rồi sau mới có Định”, mấy chữ này là bí quyết của ngàn Thánh. Đoạn kinh này hợp với câu nói ấy. Ông Lục Tượng Sơn nói : “Tâm này Lý này đồng vậy”, cho nên chẳng phải là lời nói hư dối.
Câu “Trước hết phải chọn ra căn bản sanh tử, y theo cái không sanh diệt, thì Tánh trong lặng toàn khắp thành tựu. Như lóng nước đục, đựng trong món đồ để yên”, là chỗ nói “Biết chỉ rồi sau mới định” vậy.
Câu “Dùng cái trong lặng này mà xoay các thứ Sanh Diệt hư vọng trở về Bổn Giác, như nước yên lặng thâm sâu không động thì đất cát tự chìm, nước trong hiện ra ngay trước mắt”, là chỗ nói “Định rồi sau mới tĩnh”.
Câu “Nước trong hiện tiền, gọi là bắt đầu dẹp phục phiền não khách trần, bỏ hết bùn chỉ còn nước trong, gọi là vĩnh viễn dứt lìa căn bản vô minh”, là chỗ nói “Tịnh rồi sau mới an”.
Câu “Sáng suốt tinh thuần, tất cả các biến hiện không còn là phiền não”, là chỗ nói “An rồi sau mới gặp việc”
Câu “Đều hợp với Diệu Đức trong sạch Niết Bàn”, là chỗ nói “Ứng đối với việc rồi sau mới đắc”.
Thường, Lạc, Ngã, Tịnh là bốn Diệu Đức của Niết Bàn, chỉ có Phật với Phật mới có thể rốt ráo, nay lấy thấy, nghe, hay, biết mà khế hợp nên gọi là “viễn”, lâu dài.
Trước hết, chọn ra căn bản sanh tử, tuy để chỉ cái nghiệp dụng của năm Trược, nhưng Thức Ấm chính là gốc rễ sanh tử. Thức ấy nương theo cái Chẳng Sanh Diệt hòa hợp với cái Sanh Diệt mà có tên. Nên phải lựa bỏ chủng tử Sanh Diệt mà y theo tánh trong lặng tròn khắp Chẳng Sanh Diệt. Thức Ấm lặng trong không lay động, tựa như chẳng có Sanh Diệt, nhưng trong lặng mà thực ra là căn bản Sanh Diệt. Còn Tánh trong lặng tròn đầy, vốn tự viên thành, chẳng phải do tạo tác, tức là Thật Tế Lý Địa Chân Như vậy. Y theo cái trong lặng tròn đầy này, thì vốn tự là vô sự, bèn ở nơi cái Tánh tròn lặng này mà xoay lại các thứ Sanh Diệt hư vọng. Từ trước kia bao nhiêu công phu Sanh Diệt đều là hư vọng, tuy đến chỗ Sanh Diệt đều hết, cũng là do công phu huân tập mà được, thì chẳng phải là Bản Giác. Thức Ấm xoay về, thì Bản Giác hiện tiền. Cái Bản Giác sáng suốt này, vốn là không có Sanh Diệt, chỉ do phân ra làm Thấy, Nghe, Hay, Biết mà lọt vào trong phạm vi của Thức Ấm, bị Thức Ấm che lấp, chẳng hiển lộ ra được.
Nay Thức diệt, Tánh hiện, bày lại cái Bản Lai Diện Mục của ta. Cái Bản Giác sáng suốt này tức là Thấy, Nghe, Hay, Biết mà chẳng phải là Thấy, Nghe, Hay, Biết. Cái Thấy, Nghe, Hay, Biết có khởi, có diệt, tánh Bản Giác sáng suốt không có khởi diệt. Bởi thế, chẳng lấy Thấy, Nghe, Hay, Biết làm Tâm Nhân Địa, mà lấy Bản Giác sáng suốt làm Tâm Nhân Địa, sau mới viên thành quả vị Bất Sanh Bất Diệt Như Lai. Bốn đức Niết Bàn tức là cái quả chẳng sanh chẳng diệt nên nói rằng hay đoạn khách trần phiền não và căn bản Vô Minh. Nên nói “Tánh sáng thuần”, là như vàng ròng, chẳng trở lại thành quặng, tro chẳng lại thành gỗ, chẳng làm ra phiền não nữa. Bởi thế mà một niệm Vô Sanh, tức là chứng Niết Bàn, tức Nhân tức Quả, tức ngay một lần mà đầy đủ. Có sự “Lý tuy là đốn ngộ, Sự thì dần dần trừ dứt” ấy, là Nhân gồm Thập Tín, cho đến Quả Địa suốt thông, các phần tròn đủ; tóm lại là một tánh Giác Nguyên Minh trọn thành mà thôi vậy.
Tổ Tào Sơn, thấy ông đạo giả Chỉ Y [Chỉ y : áo giấy] bèn hỏi : “Có phải là đạo giả Chỉ Y không?”
Thầy Chỉ Y rằng : “Không dám”.
Tổ Sơn nói : “Như thế nào là công chuyện của Chỉ Y (áo giấy)?”
Thầy Y đáp : “Một cái áo lông vừa khoác lên thân, vạn pháp thảy đều Như ”.
Tổ Sơn nói : “Như thế nào là cái Dụng của Chỉ Y?”
Thầy Y tiến lên, ứng : “Dạ”. Bèn đứng mà đi thoát (chết).
Tổ Tào Sơn nói : “Ông đã biết như thế mà đi, sao lại chẳng như thế mà đến?”
Thầy Y bỗng mở mắt hỏi : “Một Chân Tánh nhiệm mầu, khi không mượn bào thai thì như thế nào?”
Tổ Sơn nói : “Vẫn chưa là Diệu”.
Thầy Y nói : “Thế nào là Diệu ?”.
Tổ Tào Sơn nói : “Chẳng mượn lấy cái mượn!”
Thầy Y bèn cung kính xuống tăng đường mà ngồi tịch.
Ngài Tào Sơn có bài tụng :
“Giác Tánh sáng đầy, không tướng thân
Chớ đem Thấy Biết vọng sơ, quen
Niệm khác, ngay trong huyền chỉ, tối
Tâm sai, với Đạo chẳng chung gần
Tình phân vạn pháp, chìm tiền cảnh
Thức soi nhiều mối, mất gốc Chân
Như thế, trong câu mà hiểu được
Như nhiên vô sự, bổn lai nhân”.
Lại như Ngài Cửu Phong Kiền, ở chỗ Tổ Thạch Sương làm thị giả. Sau khi Tổ Thạch Sương tịch, đại chúng muốn mời Ông Thủ Tọa nối tiếp làm trụ trì.
Ngài Cửu Phong không chịu, nói: “Đợi tôi hỏi qua đã! Nếu hiểu ý Tiên Sư, thì xin hầu hạ như Tiên Sư vậy”.
Bèn hỏi : “Tiên sư nói “Thôi đi! Hết đi! Một niệm muôn năm đi! Tro lạnh cây khô đi! Lư hương cổ miếu đi! Một vóc lụa trắng đi!” Những thứ khác thì chẳng hỏi, như thế nào là “Một vóc lụa trắng đi!”?”
Thủ Tọa nói : “Đó chỉ là nói rõ một chuyện về bên Sắc”.
Ngài Cửu Phong nói : “Vốn chưa hiểu ý của Tiên Sư”.
Thủ Tọa nói : “Ông chẳng chấp nhận tôi ư?”
Thủ Tọa bèn thắp hương mà nói : “Tôi nếu chẳng hiểu ý của Tiên Sư, thì khói hương bay lên rồi vẫn không thoát đi được!”
Nói xong liền ngồi mà tịch.
Ngài Cửu Phong bèn vỗ vào lưng vị Thủ Tọa mà nói : “Ngồi tịch, đứng chết thì chẳng phải là không có, nhưng ý của Tiên Sư vẫn còn nằm mộng mà thấy!”
Ngài Thiên Đồng tụng rằng :
“Một tông Thạch Sương
Tự trao Cửu Phong
Thắp hương đi thoát
Chánh mạch khó thông!
(Hạc) Lấy trăng làm ổ : ngàn năm mộng!
Nhà tuyết người mê, một sắc công (trình)!
Tọa đoạn mười phương còn bị lộ
Im dời một bước : ngắm rồng bay”.
Thuận Mặc Hòa Thượng tụng rằng :
“Ngồi chi uổng mất một cây hương
Cửu Phong nào có bức cao hiền
Nếu đem một sắc thừa ngôi vị
Cô phụ Tiên Sư chẳng cậy duyên”.
Tổ Thạch Sương dạy chúng có nói rằng : “Chưa từng mất cái chiếu soi, vẫn còn là ngoại thiệu [Nối Pháp theo bên ngoài], chỉ là loại bầy tôi, cũng gọi là mượn. Nếu sanh ra mà mảy lông chẳng hở, như Thái Tử mới sanh ra thì có thể nối ngôi báu, gọi là nội thiệu [Nối ở bên trong], gọi là dòng dõi nhà vua, chẳng cần mượn danh cú vậy”.
Mượn tức là chuyện một bên của một sắc. Kia nguyên chưa được cái Tánh chẳng sanh diệt để làm Tâm Nhân Địa, thế mà muốn viên thành Quả Địa, cùng hợp với Diệu Đức trong sạch của Niết Bàn, thì khó vậy.