II. TÂM NHÂN ĐỊA
Kinh:
“Thế nào là hai nghĩa quyết định của Sơ Tâm? Anan, nghĩa thứ nhất là: Nếu các ông muốn rời bỏ Thanh Văn, mà tu Bồ Tát Thừa để vào Tri Kiến của Phật, thì nên xét kỹ cái Nhân Địa Phát Tâm và cái Quả Địa Giác Ngộ là đồng nhau hay khác nhau. Anan! Nếu ở nơi nhân địa mà lấy cái Tâm Sanh Diệt làm gốc, nhân đó mà tu để cầu quả Bất Sanh Bất Diệt của Phật Thừa, thì không thể có chuyện ấy được.
Thông rằng:
Đây là chỉ bày Thấy Tánh Đệ Nhất Nghĩa vậy. Nếu luận về Thấy Tánh, thì chẳng mượn ở công phu huân tập, mà chỉ quán xét Chỗ Nhân Địa Phát Tâm cùng với Quả Địa Giác Ngộ là đồng hay khác. Bởi thế, Thánh nhân không nghĩ suy mà đắc, không gắng sức mà vẫn trúng. Hạng Xích Tử [Cái Tâm như con nít vô tư] cũng chẳng lo nghĩ mà biết, chẳng học hành mà nên. Chẳng học tập, chẳng lo toan, là cái Nhân; chẳng nghĩ suy, chẳng cố gắng, là cái Quả vậy. Nên nói : “Bậc đại nhân chẳng hề mất cái tâm xích tử. Nhân và Quả vốn khế hợp, tuyệt không có tăng, giảm”. Không thấy Tánh, đâu đủ sức nói lời ấy!
Ngài Mã Tổ khi còn tại núi Nam Nhạc, ở riêng một phòng nơi Viện Truyền Pháp, chỉ tập ngồi thiền, ai đến thăm hỏi đều không màng đến. Đại sư Hoài Nhượng đến cũng chẳng để ý. Đại sư thấy Mã Tổ cốt cách khác thường, bèn nhớ lại lời tiên tri của Đức Lục Tổ, mới dùng những phương tiện dẫn dạy cho.
Một hôm, Đại sư lấy một viên gạch ra trước am mà mài. Mã Tổ cũng không để ý đến.
Lâu lắm, Ngài Mã Tổ mới hỏi : “Làm cái gì thế?”
Đại sư đáp : “Mài để làm cái gương soi!”
Mã Tổ hỏi : “Mài gạch mà thành gương được sao?”
Đại sư nói : “Mài gạch đã không thành gương, thì ngồi thiền hóa lại thành Phật ư ?”
Mã Tổ bèn rời chỗ ngồi thiền, nói : “Như thế nào là phải?”
Đại sư đáp : “Ví như ngồi xe, xe chẳng đi, thì đánh xe là đúng hay đánh bò là đúng?”
Mã Tổ không đáp được.
Đại sư lại nói: “Ông học tọa thiền, hay học tọa Phật? Nếu học tọa thiền thì thiền chẳng phải là chuyện ngồi, nằm. Nếu học tọa Phật thì Phật chẳng phải là cái tướng ngồi, nên trong pháp vô trụ, chẳng có nắm bỏ. Nếu ông tọa Phật tức là giết Phật. Nếu chấp vào tướng ngồi thì chẳng tỏ suốt được lý”.
Mã Tổ bèn lễ bái, và hỏi: “Dụng tâm như thế nào, liền hợp với Vô Tướng Tam Muội?”
Đại sư nói: “Ông học pháp môn Tâm Địa, như gieo giống xuống. Tôi nói pháp yếu, như trời mưa thấm. Duyên ông thích hợp nên sẽ thấy Đạo”.
Mã Tổ nói: “Đạo chẳng phải là sắc tướng, làm sao có thể thấy?”
Đại sư nói : “Pháp nhãn Tâm Địa thì thấy Đạo. Vô Tướng Tam Muội cũng thế”.
Ngài Mã Tổ hỏi : “Có thành hoại không?”
Đại sư nói : “Nếu lấy sự thành hoại, tụ tán mà thấy Đạo, thì chẳng phải là thấy Đạo. Nghe kệ ta đây:
“Tâm địa ngậm muôn giống
Gặp mưa mầm đều sanh
Hoa Tam Muội, vô tướng
Nào hoại với nào thành”.
Mã Tổ nghe qua lời dạy, hoát nhiên khai ngộ. Hầu đại sư mười năm, ngày càng mật nhiệm, về sau hoằng hóa ở Giang Tây.
Đại sư Hoài Nhượng hỏi chúng : “Mã Tổ Đạo Nhất có vì chúng nói pháp không?”
Chúng đáp : “Đã nói pháp cho chúng rồi”.
Đại sư nói : “Chưa thấy có ai mang tin tức của ông ta đến”.
Bèn sai một nhà sư đi, dặn rằng : “Đợi lúc ông ta thượng đường nói pháp, thì chỉ hỏi : “Làm sao?” Ông ấy nói thế nào hãy nhớ lấy đem về đây”.
Vị sư đến chỗ Mã Tổ, làm y theo lời đại sư dặn.
Khi trở về, nói với đại sư rằng : “Đạo Nhất nói : “Từ sau loạn rợ Hồ, ba mươi năm nay chưa hề thiếu tương muối””.
Đại sư bằng lòng.
Tổ Tuyết Phong gởi lời cho Tổ Nham Đầu rằng : “Từ khi ở Ngao Sơn thành Đạo về sau, cho đến bây giờ no hoài chẳng đói”.
Thế thì, cũng tương tự với câu trên của Ngài Mã Tổ, đều là Nhân Địa Phát Tâm với Quả Địa Giác Ngộ không có đồng, khác vậy. Kia học ngồi thiền, có tu có chứng, bèn thuộïc về Pháp Sanh Diệt, đối trong chỗ Vô Thượng Thừa, xa bao ngàn dặm!