Kinh:
“Lại nữa, nếu cái Thấy là vật thì đang khi ông thấy vật, ông đã thấy vật rồi thì vật cũng phải thấy ông. Thế là Thể và Tánh xen lộn, tức là ông với Ta cùng với cả thế gian không an lập được.
“Ông Anan, nếu khi ông thấy, đó chính là ông nào có phải Ta, thì cái Tánh Thấy cùng khắp đó chẳng phải là chính ông thì còn là ai? Tại sao lại tự nghi Chân Tánh của mình. Tánh của ông vốn không Chân hay sao mà bám lấy Ta cầu tìm cái thật?”
Thông rằng:
Bộ Hiệp Luận nói rằng “Nghĩa của đoạn kinh này phát sanh từ một câu “Làm sao biết đó là Chân Tánh của tôi?” Nên Đức Thế Tôn mới khai thị cái tướng của sự không Thấy để khiến hiểu rõ Chân Tánh mà chẳng nên tìm cầu ở nơi phân biệt”.
Ngài Mã Minh nói “Tất cả Như Lai đều là Pháp Thân, bởi vì không có cái thấy kia-đây, sai khác, đồng nhau”. Nên nói rằng “Nếu thấy cái chẳng thấy thì tự nhiên đó không phải là cái tướng không thấy của người kia”. Nói “chẳng phải người kia” thì chỉ là cái tướng chẳng thấy của Anan đó thôi, mà không phải là cái chẳng thấy của Đức Thế Tôn. Vậy ắt là chỗ không thấy của Thế Tôn thì Anan không thể thấy được, chỉ có Thế Tôn thấy được. Nên nói rằng “Nếu không thấy được chỗ không thấy của Ta, thì cái thấy của ông chẳng phải là vật”. Nói “Chẳng phải vật” không phải là cái thấy của Thế Tôn, mà chỉ là cái tướng của cái chẳng thấy của Anan. Nếu Đức Thế Tôn cũng thấy cái thấy của Anan và Anan cũng thấy cái thấy của Thế Tôn” thì tức là cái Tánh Thấy trong sạch thành ra cái vật có hình tướng. Nên mới nói “Thể, Tánh lộn xộn chẳng có an lập”. Cái chỗ chẳng thấy là chỗ căn bản, quyết chẳng thể nào thấy được. Cũng như trồng cây mà hằng này cứ moi rễ lên xem thì cây sống sao được.
Ngài Phó Đại Sĩ có bài kệ :
“Có vật trước trời đất
Vốn phẳng lặng không hình
Hay làm chủ muôn tượng
Chẳng theo bốn mùa tàn”.
Bài này chỉ ra rõ ràng cái Chân Tánh, chẳng phải là chỗ cái thấy đến được. Vậy mới là mặt trăng thứ nhất, chứ chẳng phải riêng cái Kiến Tinh Minh Nguyên mới là không thể thấy được mà thôi đâu.
Đoạn kinh này ý nghĩa rất vi diệu, không có chỗ nào chẳng phát minh cái Tinh Diệu Minh, thật là cái Tánh Thấy của ông. Sao lại nói: “Cái thấy này là ông chứ không phải là vật”? Sở dĩ nói “Cái thấy không phải là vật”, vì nếu cái thấy là vật, thì cái thấy của tôi, ông có thể thấy. Nhưng cái thấy của tôi thì hẳn là ông không thể thấy được. Nếu bảo khi ông và tôi cùng thấy là ông thấy cái thấy của tôi, thì khi tôi thấy, ông có thể thấy cái thấy ấy. Còn khi tôi không thấy, thì ông vẫn thấy được chứ tại sao lại không được? Nếu bảo rằng khi tôi thấy, thì thấy cái thấy ấy; khi tôi không thấy thì thấy cái chẳng thấy mà cho đó là thấy chỗ chẳng thấy của tôi, thì đã tự mình không thấy chứ sao lại nói là thấy được cái tướng không thấy của tôi? Muốn lấy cái tướng chẳng thấy của tôi làm chỗ thấy của ông, rõ ràng đó là cái tướng của thấy mà chẳng phải là cái tướng của không thấy. Cái chỗ chẳng thấy đó hẳn nhiên ông không thể thấy được. Khi chỗ chẳng thấy đã không thể thấy, vậy khi cùng thấy cũng chẳng có thể thấy. Thấy cùng chẳng thấy đều không thể chỉ ra, thì cái thấy của tôi rõ ràng chẳng phải là vật.
Cái thấy của tôi đã không phải là vật thì cái thấy của ông rõ ràng cũng không thể là vật. Cái thấy của ông đã chẳng phải vật, tức là không thuộc về vật, tại sao chẳng phải là ông? Đây tức là lấy sự chẳng thể Thấy để biện rõ cái chẳng phải là vật vậy. Giả sử có thể thấy được, thì cái thấy cũng là vật thì làm sao làm chủ muôn tượng mà an lập thế gian? Cho nên, có cái Không Hình mới hiện ra hình tướng, có cái Không Phải Vật mới hay biết sự vật.
Cái thấy của tôi, cái thấy của ông, đã chẳng phải vật thì chẳng có ranh giới giáp nhau, đầy khắp pháp giới, không thiếu hụt, dư thừa chỗ nào. Hữu Tình và Vô Tình đều do cái ấy mà kiến lập, gọi đó là Chân Tánh. Cái Tánh mà chẳng thật là ông, thì cái thấy cũng chẳng thuộc về ông mới phải. Nhưng rõ ràng cái thấy là của ông mà chẳng phải là của tôi, thì cớ sao lại tự nghi nó chẳng chân thật, mà phải bám vào Ta để cầu xin cái Thật? Giả sử ta có thể đem cho ông được, thì chẳng phải là cái Chân Thật của ông vậy.
Có vị sư hỏi thiền sư Thượng Lam Siêu: “Thế nào là việc bổn phận của Thượng Lam?”
Tổ Lam rằng: “Chẳng theo ngàn Thánh mượn. Há hướng vạn sự cầu?”
Nhà sư hỏi: “Không mượn, không cầu, thì như thế nào?”
Tổ Lam rằng: “Chẳng thể cầm nắm. Trong tay Xà Lê đưa ra được ư?”
Tổ Đơn Hà tụng rằng:
“Một phiến Linh Minh vốn diệu viên
Ở trong không chánh cũng không thiên [Nghiêng]
Núi báu, cỏ lành không gốc rễ
Chẳng đợi Chúa Xuân, sắc tự nhiên”.
(Nhất phiến Linh Minh bổn diệu viên
Cá trung phi chánh diệc phi thiên
Bửu phong thoại thảo vô căn đế
Bất đải Xuân Công sắc tự tiền).
Ngộ chỗ này ắt biết Chân Tánh vốn không vật. Không vật thì không hỗn tạp. Không hỗn tạp nên vật và ta đồng nguồn, hồn nhiên đầy đủ. Nếu hướng theo người tìm cầu cho được, đều là chẳng phải.