Kinh:
“Anan, ông há chẳng biết ngay ở trong hội này, Ông A Na Luật Đà không có Mắt mà thấy; rồng Bạt Nan Đà không có Tai mà nghe; thần nữ Căng Già không có Lưỡi mà biết mùi vị; thần Thuấn Nhã Đa không có Thân mà biết cảm giác, trong hào quang Như Lai chiếu ra, làm cho tạm hiện ra có thân, chứ bản chất của ông là gió làm gì có thân thể? Các vị Thanh Văn được tịch diệt ở trong Diệt Tận Định, như Ông Ma Ha Ca Diếp trong hội này, diệt mất Ý Căn từ lâu mà vẫn hiểu biết tròn vẹn sáng suốt, không do ở tâm niệm”.
Thông rằng:
Kinh nói, “Vốn sáng suốt mà chẳng theo Căn”, cho đến việc “Sáu Căn dùng thay nhau”, ở chỗ nào mà nghiệm? Ông Luật Đà được nửa cái Thiên Nhãn nên không cần nhờ con Mắt. Rồng lấy sừng nghe nên chẳng cần đến Tai. Thần sông Căng Già ngửi Hương vốn chẳng dùng Mũi. Ông Bạt Đề lưỡi trâu mà vẫn phân biệt các Vị. Thần Thuấn Nhã không thân mà vẫn có xúc giác. Các vị Thanh Văn đã chứng Diệt Tận Định, như Đại Ca Diếp, đã diệt mất Ý Căn từ lâu.
Do đó mà biết sáu Căn có thể không có, thì vốn chẳng phải là sáu. Sáu Căn có thể dùng thay cho nhau, thì vốn chẳng phải là một. Chẳng phải một, chẳng phải sáu, mà cái Thể trong lặng tròn đầy kia, ai ai cũng sẵn đủ, há chẳng ở nơi đây mà càng tự tin lấy sao?
Ngài Phổ Dung Trí Tạng đến chỗ Ngũ Tổ Pháp Diễn đang nhập thất, Tổ đem chuyện Thảnh Nữ [Chuyện Cô Thảnh Nữ lìa hồn như sau: Đời Đường có ông Trương Giật, có con gái là Thảnh Nương, đã hứa gả cho cháu là Vương Trụ. Lớn lên, định gả cho nơi khác. Vương Trụ bỏ đi. Nửa đêm thấy Thảnh Nương tới. Hai người ở với nhau có hai con. Sau năm năm, Vương Trụ đưa vợ con về thăm nhà để xin lỗi. Ông Giật rất kinh ngạc, vì cô Thảnh vẫn ở nhà từ trước đến giờ, và nằm bệnh đã năm năm. Hai cô gặp nhau thì nhập thành một] lìa hồn mà hỏi. Ngài liền khế ngộ, làm bài kệ:
“Hai cô hợp thành một cô dâu
Cuộc đời ngăn đứt, khó gặp nhau
Từ đây qua lại không tung tích
Lúc đến, người đi chớ hỏi đường!”.
Ông Trương Tử Thiều đến Tổ Kính Sơn, cùng với ông giúp việc trong chùa đàm luận về “Cách Vật”.
Tổ Kính Sơn Huệï nói: “Ông chỉ biết có Cách Vật mà không biết có Vật Cách”.
Ông Thiều ngơ ngác. Tổ Huệ cười lớn.
Tử Thiều hỏi: “Thầy có thể đem ra thí dụ được chăng?”
Tổ Huệ nói: “Không thấy trong tiểu thuyết có chép: Đời Đường, có người làm quan Lang Thủ cùng An Lộc Sơn mưu phản. Khi vua Đường Minh Hoàng đến đất Thục, thấy hình tượng của người này, nổi giận ra lệnh cận thần chém đầu bức tượng. Khi ấy Lang Thủ đang ở Thiểm Tây mà đầu bỗng rớt xuống đất”.
Ông Tử Thiều nghe xong liền ngộ ý chỉ sâu mầu.
Ngài Phần Dương có bài tụng Lục Tướng:
“Thấy là A Na Luật
Rõ ràng không một vật
Núi sông cùng đất đai
Diễn bày Ba La Mật.
Nghe là Bạt Nan Đà
Tiếng thông, không gì quá
Xa gần đồng đều rõ
Chẳng cần niệm Ma Ha.
Ngửi là Căng Già nữ
Tâm từ bi cùng khắp
Sạch dơ đều rõ hết
Tức đó, không ta người.
Nếm là Kiều Phạm Ba
Ngọt đắng cũng bình thường
Vào miệng rõ cay chua
Giống như trăng giữa trời.
Xúc là Thuấn Nhã Đa
Thiện ác, hết thảy hòa
Cắt xẻ không vui giận
Chỉ thật A Di Đà.
Ý là Đại Ca Diếp
Tỳ Lô [Pháp Thân] là Một Pháp
Nhà tối rõ ràng phân
Chi phái ngàn hoa lá”.
Chỗ Thấy của Ngài Phần Dương xa thẳm lạ thường, mượn sáu Căn này mà mỗi mỗi chỉ ra cửa hướng thượng. Trái lại, không rời chuyện “Phục về nguồn Chân, phát ra cội nguồn sáng suốt chói rực” mà thôi vậy.