DIỄN ĐÀN PHẬT PHÁP THỰC HÀNH - Powered by vBulletin




Cùng nhau tu học Phật pháp - Hành trình Chân lý !            Hướng chúng sinh đi, hướng chúng sinh đi, để làm Phật sự không đối đãi.


Tánh Chúng sinh cùng Phật Quốc chỉ một,
Tướng Bồ Đề hóa Liên hoa muôn vạn.

Trang 51/59 ĐầuĐầu ... 414950515253 ... CuốiCuối
Hiện kết quả từ 501 tới 510 của 588
  1. #501
    NỤ Avatar của Thiện Tâm
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    601
    Thanks
    275
    Thanked 229 Times in 156 Posts


    I. HỎI VỀ SỰ SANH KHỞI VÀ NHÂN QUẢ CỦA LỤC ĐẠO

    Kinh :

    Phật nói lời ấy xong, liền khi đó, Ông Anan và cả đại chúng nhờ được Như Lai khai thị ý nghĩa mật ấn Bát Đát Ra, lại nghe được những tên gọi Liễu Nghĩa của kinh này, đốn ngộ được diệu lý tăng thượng để tu, tiến vào các Thánh Vị trong Thiền Na. Tâm tư rỗng lặng, đoạn trừ sáu phẩm phiền não vi tế tư-hoặc về tam giới. Ông liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ dưới chân Phật, chắp tay cung kính, bạch Phật rằng : “Đại oai đức Thế Tôn, Từ Âm không che ngại, khéo khai ngộ những lỗi lầm sâu kín nhỏ nhiệm của chúng sanh, khiến chúng tôi ngày nay thân tâm khoan khoái rỗng nhiên, được lợi ích lớn. “Thưa Thế Tôn, cái Chân Tâm diệu minh trong sạch nhiệm mầu này bổn lai toàn khắp viên mãn, như thế cho đến đất đai, cỏ cây, các loài máy động vốn nguyên là Chân Như, đó là Chân Thể thành Phật của Như Lai. Nếu Phật Thể vốn chân thật như thế thì cớ sao lại có các nẻo địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, tu la, người, Trời. Bạch Thế Tôn, những nẻo ấy là bổn lai tự có hay do tập khí hư vọng của chúng sanh khởi ra ? “Bạch Thế Tôn, như Tỳ Kheo Ni Bảo Liên Hương giữ Bồ Tát Giới, lén làm việc dâm dục, rồi nói càn rằng hành dâm chẳng phải sát sanh, chẳng phải trộm cắp, không có nghiệp báo ! Phát lời ấy rồi, trước hết nơi nữ căn sanh ra ngọn lửa hừng lớn, sau nơi mỗi mỗi đốt xương lửa cháy phừng phừng, đọa địa ngục Vô Gián. “Như Đại Vương Lưu Ly và Tỳ Kheo Thiện Tinh: Lưu Ly vì giết hai họ hàng Cù Đàm; Thiện Tinh vì thuyết bậy rằng tất cả pháp đều rỗng không mà thân đang sống đọa vào địa ngục A Tỳ. “Các địa ngục này là có chỗ nhất định, hay là tự nhiên mà khi mỗi người kia phát nghiệp thì mỗi mỗi riêng chịu ? “Xin Phật rủ lòng Đại Từ, khai thị cho kẻ non dại mê muội, khiến cho tất cả các chúng sanh trì giới nghe nghĩa quyết định, hoan hỉ đội đầu, cẩn thận giữ gìn không phạm”.




  2. #502
    NỤ Avatar của Thiện Tâm
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    601
    Thanks
    275
    Thanked 229 Times in 156 Posts


    Thông rằng :

    Ông Anan nghe Phật bảo rằng “Mật ấn liễu nghĩa chỉ là một con đường hướng thượng rõ ràng, hẳn không có sự Tu vậy”. Nhưng vô minh bao kiếp bời bời há có thể trừ hết ngay sao ? Do đó, nơi Diệu Lý tăng thượng tu lên các Thánh Vị được cái cửa ngộ vào thì tuần tự mở tỏ thân tâm, tâm tư rỗng lặng, đã được đoạn trừ sáu phẩm phiền não nhỏ nhiệm của Tư Hoặc thuộc về tam giới. Tam Giới(55) phân ra chín Địa, mỗi Địa có chín Phẩm. Đoạn trừ chín Phẩm của Dục Giới : Trừ sáu Phẩm đầu chứng quả Thứ Nhì, trừ ba Phẩm sau chứng quả Thứ Ba, A Na Hàm. Đoạn trừ hết mười tám Phẩm của hai giới Sắc và Vô Sắc, chứng bậc Vô Học A La Hán. Đoạn trừ sáu phẩm phiền não vi tế này là chỉ Thân Kiến, Biên Kiến và Tà Kiến đoạn trừ ở địa vị Sơ Quả. Kiến Thủ, Giới Thủ và Tham đoạn trừ ở địa vị Nhị Quả. Còn lại Sân, Mạn và Si đến địa vị Thứ Ba mới đoạn trừ. Ông Anan mới chứng Nhị Quả nên chỉ đoạn trừ được sáu Phẩm. Chẳng đoạn Vô Minh thì chẳng chứng Vô Sanh. Tuy chứng Vô Sanh mà phiền não vô minh vi tế chưa hết thì chưa đắc Chân Ngộ vậy. Nên ông xin Phật nói rõ sâu xa về bảy nẻo luân hồi để mở chỗ nghi lầm, khiến cho người trì giới cẩn thận giữ gìn không phạm. Chỗ nghi của Ngài Anan tuy tương tự với cái nghi “Bổn nhiên thanh tịnh sao bỗng sanh núi sông đại địa” ở trước. Nhưng ba thứ tương tục là do vọng kiến mà sanh ra, lại nữa, mười hai loại sanh đều là do điên đảo. Ông Anan há chẳng lãnh hội sao mà lại có nghi vấn này ? Đó chính là vì sợ có người diệu ngộ trở lại chấp cái Chân Tâm trong sạch nhiệm mầu này xưa nay toàn khắp viên mãn, bèn nhận là đại địa, cỏ cây vốn một Chân Như, Chân Thể thành Phật, sao còn có các thứ địa ngục v.v... Đây là chấp cái Diệu Viên mà bác bỏ các nẻo, chỉ riêng rõ ràng việc hướng thượng mà chẳng đoạn dứt phiền não thì thường thường có cái bệnh này. Nếu quả không có các nẻo địa ngục v.v... thì Tỳ Kheo Thiện Tinh và Tỳ Kheo Ni Bửu Liên Hương đúng ra không có báo ứng rõ ràng. Nay cảm ứng rõ ràng, chẳng sai chạy thì các nẻo địa ngục phải là có. Há chẳng do tu tập lầm loạn mà đưa đến ư ? Chỉ do nơi tu tập lầm loạn, nên không được chấp chặt nhất định là có, cũng không được chấp chặt nhất định là không. Tu tập chẳng lầm thì có cũng thành không. Tu tập đã lầm thì không cũng thành có. Chỗ này hoàn toàn do ở sự tu tập vậy. Trì Giới Luật, đoạn phiền não há có thể chẳng chăm chỉ cẩn thận ư ?



  3. #503
    NỤ Avatar của Thiện Tâm
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    601
    Thanks
    275
    Thanked 229 Times in 156 Posts


    Khi Tổ Bách Trượng thượng đường thì thường có một ông già nghe pháp rồi theo đại chúng đi ra. Một hôm ông chẳng về, Tổ hỏi : “Đứng đó là ai?” Ông già nói : “Vào thời Phật Ca Diếp tôi đã từng ở núi này. Có người học Đạo hỏi rằng : “Người tu hành còn rơi vào (lạc) nhân quả không ?” Tôi đáp : “Chẳng rơi vào nhân quả”, bị đọa vào thân chồn năm trăm kiếp. Nay xin Hòa Thượng thay thế cho một chuyển ngữ””. Tổ Bá Trượng nói : “Chẳng mê mờ nhân quả”. Ông già nghe xong đại ngộ, cáo biệt rằng : “Tôi đã khỏi thân chồn rồi, ở phía sau núi, xin theo nghi thức tăng qua đời mà thiêu cho”. Tổ khiến Ông Duy Na(56) đánh bản, báo với đại chúng sau khi thọ trai thì mời hết, đi đưa vị tăng qua đời. Đại chúng không hiểu gì. Tổ dẫn đại chúng đến cái hang ở sau núi, lấy trượng khều ra một xác chồn, rồi theo nghi thức hỏa táng. Đến buổi tham học chiều, Tổ đang nêu lại câu chuyện thì Ngài Hoàng Bá bèn hỏi : “Người xưa đáp sai một chuyển ngữ mà đọa vào thân chồn hoang. Còn ngày nay chuyển chuyển đều chẳng lầm thì thế nào ?” Tổ nói : “Đến gần đây ta nói cho nghe !”
    Hoàng Bá đến gần, đánh Tổ một cái.
    Tổ vỗ tay cười rằng : “Sắp nói Hồ râu đỏ, lại có đỏ râu Hồ !”
    Ngài Thiên Đồng tụng rằng :

    “Một thước nước,
    Một trượng sóng !
    Năm trăm kiếp trước chẳng hề gì
    Chẳng “lạc”, chẳng “mờ” thương lượng đi
    Y xưa, rớt vào bộng cát đằng
    Ha ha ha, hiểu vậy chăng ?
    Nếu mà ông liên miên lỗi lạc
    Nào ngại ta ha hả cười hoài
    Thần ca Thánh múa thành ra khúc
    Khoảng ấy vỗ tay hát lý la”.




  4. #504
    NỤ Avatar của Thiện Tâm
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    601
    Thanks
    275
    Thanked 229 Times in 156 Posts


    Viên thiền sư ở trong hội của Tổ Nam Công nghe hai nhà sư nhắc lại câu chuyện trên. Một vị nói “Chỉ như “Chẳng mờ nhân quả” thì cũng chưa thoát được thân cáo chồn !” Vị kia lên tiếng : “Vậy thì “Chẳng sa nhân quả” thì cũng có bao giờ đọa vào thân cáo chồn ư ?”
    Ngài Viên hoảng hồn, kinh dị với các lời trên, vội lên Tổ Hoàng Bá, khi qua cái khe đầu am Tích Thúy, bỗng nhiên đại ngộ. Gặp Tổ Nam Công, kể bày câu chuyện chưa xong mà nước mắt ướt má. Tổ Nam Công bảo Ngài lại chỗ nằm của ông thị giả mà ngủ.
    Bỗng Ngài ngồi dậy đọc bài kệ :

    “Chẳng “lạc”, chẳng “mờ”
    Tăng tục vốn không kiêng cữ
    Trượng phu khí phách như Vương
    Nào chịu túi, chăn che đậy
    Một cành liễu táo mặc tung hoành
    Chồn cáo nhảy vào đàn sư tử”.


    Tổ Nam Công cười lớn. Vậy thì một cái anh chồn cáo này, trước kia sao là có, về sau sao là không ? Các nhà ở nơi cái nhân duyên này, che đậy biết bao kẻ, mở thoát biết bao người. Thế mới biết chỗ đáng quý là Chân Ngộ vậy. Nếu chấp Diệu Viên mà bác bỏ các nẻo nghiệp thì quả là kiến giải của loài tinh chồn cáo vậy.



  5. #505
    NỤ Avatar của Thiện Tâm
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    601
    Thanks
    275
    Thanked 229 Times in 156 Posts


    II. KHAI THỊ VỀ PHẬN TRONG, PHẬN NGOÀI CỦA CHÚNG SANH

    Kinh :

    Phật bảo Ông Anan : “Hay thay lời hỏi đó, khiến cho chúng sanh chẳng rơi vào tà kiến. Nay ông hãy nghe kỹ, ta sẽ vì ông mà nói. “Anan, tất cả chúng sanh thật ra vốn Chân Tịnh, nhân tự có vọng kiến mà có các tập khí hư vọng sanh ra. Do đó mà có phân ra phận trong và phận ngoài. “Anan, Phận Trong tức là trong phần của chúng sanh. Do các ái nhiễm phát khởi vọng tình, tình tích chứa mãi không ngừng thì hay sanh ái thủy. Bởi thế chúng sanh hễ tâm nhớ món ăn ngon thì trong miệng nước chảy ra; hễ tâm nhớ người trước, hoặc thương hay ghét thì trong mắt lệ tràn. Tham cầu của báu thì tâm phát ái diên (nước dãi), cả mình đều trơn nóng. Tâm dính vào chuyện hành dâm thì hai căn nam, nữ tự nhiên chảy nước dịch.
    “Anan, các ái tuy có khác nhau, nhưng kết quả chảy nước là đồng, thấm ướt không lên được, tự nhiên theo đó mà sa xuống, ấy gọi là phận trong. “Anan, Phận Ngoài tức là ngoài phần của chúng sanh. Nhân các lòng khao khát, trông mong, phát sanh ra các hư tưởng. Cái Tưởng chứa chất mãi không thôi thì hay sanh ra sự trội hơn về khí. Bởi thế chúng sanh tâm giữ Giới Cấm thì cả thân mình nhẹ nhàng trong suốt. Tâm giữ Chú Ấn thì mắt nhìn hùng dũng, nghiêm nghị. Tâm muốn sanh cõi Trời thì chiêm bao thấy bay lên. Tâm để nơi cõi Phật thì Thánh cảnh thầm hiện. Phụng sự bậc thiện trí thức thì tự coi nhẹ thân mệnh mình. “Anan, các Tưởng tuy khác nhau, nhưng sự nhẹ nhàng cất lên thì đồng. Cất bay lên không chìm xuống, tự nhiên vượt lên, ấy gọi là Phận Ngoài. “Anan, hết thảy thế gian sống chết nối nhau : Sanh thì theo tập khí quen thuộc; tử thì theo sự đổi dòng. Lúc mệnh chung, chưa hết hơi ấm thì thiện ác một đời cùng lúc liền hiện ra. Sống thuận, chết nghịch, hai tập khí giao nhau. “Thuần là Tưởng thì bay lên, hẳn là sanh trên cõi Trời. Nếu trong tâm bay lên đó gồm cả Phước Đức và Trí Huệ cùng với tịnh nguyện thì tự nhiên tâm mở tỏ, thấy tất cả Tịnh Độ của mười phương Chư Phật, rồi tùy nguyện mà vãng sanh. “Tình ít, Tưởng nhiều thì cất lên chẳng xa mà làm các loài Phi Tiên, Đại Lực Quỷ Vương, Phi Hành Dạ Xoa, Địa Hành La Sát dạo trong bốn cõi trời không bị ngăn ngại. Nếu có thiện nguyện, thiện tâm hộ trì Phật Pháp hoặc hộ trì Cấm Giới thì theo người trì Giới, hoặc hộ trì Thần Chú thì theo người trì Chú, hoặc hộ trì thiền định thì giữ an pháp nhãn, hết thảy đều được gần gũi dưới pháp tòa của Như Lai. “Tình và Tưởng ngang nhau thì không bay lên, không đọa xuống, sanh nơi cõi người. Tưởng sáng thì thông minh, Tình tối thì ngu độn. “Tình nhiều Tưởng ít thì trôi dạt vào cầm thú : Nặng thì làm giống mang lông, nhẹ thì làm loài có cánh. “Bảy phần Tình, ba phần Tưởng thì chìm xuống Thủy Luân, sanh nơi mé Hỏa Luân, chịu ngọn lửa mạnh, thân làm ngạ quỉ, thường bị thiêu đốt. Vì nước có thể hại mình nên trải trăm ngàn kiếp không ăn không uống. “Chín phần Tình, một phần Tưởng thì xuống thấu Hỏa Luân, thân đi vào ranh giới giao nhau của Phong Luân và Hỏa Luân, nhẹ thì sanh vào Hữu Gián, nặng thì sanh vào Vô Gián, hai thứ địa ngục. “Thuần là Tình thì chìm sâu vào ngục A Tỳ. Nếu trong tâm chìm đắm đó mà có sự hủy báng Đại Thừa, phá Cấm Giới của Phật, nói pháp láo dối, tham bậy của tín chủ, lạm nhận sự cung kính hoặc Ngũ Nghịch, Thập Trọng thì lại sanh vào địa ngục A Tỳ mười phương. “Theo sự tạo ác nghiệp, tuy tự chuốc lấy nhưng trong nghiệp đồng phận chung đó vẫn có chỗ sẵn.



  6. #506
    NỤ Avatar của Thiện Tâm
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    601
    Thanks
    275
    Thanked 229 Times in 156 Posts


    Thông rằng :

    Đây là trả lời chung câu hỏi “Các nẻo là vốn tự có hay là do tập khí hư vọng của chúng sanh sanh khởi ra ?” Căn cứ theo chỗ chiêu cảm của bảy nẻo tùy nghiệp thọ sanh, hoặc thiên đường, địa ngục... hoặc cõi người thì khổ vui chẳng đồng, nhưng mỗi nẻo đều có đồng nghiệp tương thành, tức là trong đồng phận vốn có chỗ sẵn, không thể cho là không có, vì nó vốn là do tập khí hư vọng sanh ra vậy. Tánh của chúng sanh vốn là Chân Tịnh, chẳng rơi vào Thánh, phàm. Bởi tự dấy khởi tình kiến, chẳng biết đó là hư vọng, hư vọng mà huân tập hoài thì không bỏ được nữa. Từ thân xác khởi vọng niệm thì cái vọng kiến đó, tập khí hư vọng đó ở trong phần của thân xác. Từ ý tưởng khởi vọng niệm thì cái kiến, cái tập khí hư vọng đó ở ngoài phần của thân xác. Trong phần của thân xác, do Ái mà mắc Tình : miệng đối với vị, mắt đối với sắc, tâm đối với của cải hay sanh ra ái thủy. Tánh nước chảy xuống nên theo đó mà rớt xuống. Ngoài phần của thân xác, do Suy mà mắc vào Tưởng : hoặc để tâm nơi cõi Phật, hay muốn sanh lên cõi trời, hoặc giữ thiện pháp, nên hay sanh ra cái khí trội hơn. Khí thì bay lên, nên theo đó mà đi lên. Thuần là Tưởng thì sanh từ cõi Đao Lợi trở lên, có tịnh nguyện thì sanh cõi Tịnh Độ. Chín phần Tưởng thì làm Phi Tiên; tám phần Tưởng thì làm Đại Lực Quỷ Vương. Bảy phần Tưởng thì làm Phi Hành Dạ Xoa. Sáu phần Tưởng làm Địa Hành La Sát. Bởi vì Tưởng trội vượt nên chỗ đi không ngăn ngại vậy. Nhưng Tình có tà, chánh. Chánh thì không rời pháp tòa của Như Lai, bởi trước giờ giữ Giới, trì Chú, phụng sự thiện tri thức, nên rốt cuộc làm Thần Hộ Pháp. Tình và Tưởng ngang nhau thì sanh ở cõi người. Sáu phần Tình thì làm cầm thú. Bảy phần Tình thì làm ngạ quỷ. Tám phần Tình thì sanh vào địa ngục Hữu Gián. Chín phần Tình thì sanh vào địa ngục Vô Gián. Thuần là Tình thì chìm vào địa ngục A Tỳ. Có thêm các tội chê Phật, báng Pháp thì lại sanh vào địa ngục A Tỳ mười phương không có ngày ra. Ấy là vọng nghiệp tự chuốc lấy, sạch dơ có khác vậy.
    Nếu chẳng vướng mắc nơi Tình ắt địa ngục không. Chẳng vướng mắc nơi Tưởng ắt thiên đường không. Tình, Tưởng đều không thì tuy ở nhân gian mà tâm dạo nơi cõi Phật. Bảy nẻo nghiệp vẫn có sẵn thì Tịnh Độ cũng có sẵn rõ ràng vậy. Trở lại cái bổn lai chúng sanh chân tịnh của ta mà chẳng sanh nơi Tịnh Độ thì sanh về đâu ? Có nhà sư hỏi Tổ Bách Trượng : “Đối với tất cả cảnh, như sao mà được tâm như gỗ đá nhỉ ?”
    Tổ Trượng nói : “Tất cả các pháp vốn chẳng tự nói không, chẳng tự nói sắc, cũng chẳng tự nói trái phải, dơ sạch, cũng không có tâm trói buộc người. Chỉ tại con người tự hư vọng dấy nghĩ mà vướng mắc, tạo ra đủ thứ giải thoát tìm hiểu, khởi bao nhiêu thứ tri kiến, sanh bao nhiêu thứ thương ghét. Chỉ rõ các pháp vốn chẳng tự sanh, hết thảy đều từ một niệm vọng tưởng điên đảo bám giữ tướng của tự mình mà có. Biết Tâm cùng cảnh vốn chẳng đến nhau, ngay đây là Giải Thoát. Mỗi mỗi các pháp, hiện đây tịch diệt, hiện đây là đạo tràng. Cái Tánh vốn hiện có, chẳng thể đặt tên, phân hạng. Xưa nay chẳng là phàm, chẳng là Thánh, chẳng là dơ sạch, cũng chẳng không hay có, cũng chẳng phải thiện, ác. Tương ưng với các pháp nhiễm ô thì gọi là cảnh giới Trời, người, Nhị Thừa. Bằng như tâm dơ sạch hết tuyệt, chẳng trụ ràng buộc, chẳng trụ giải thoát, không có hết thảy tâm lượng hữu vi, vô vi, ràng buộc, giải thoát, thì ở ngay trong sanh tử, mà tâm đó tự tại. Rốt ráo chẳng cùng các thứ trần lao hư huyễn, uẩn giới sanh tử giả dối. Các thứ nhập, hòa hiệp rỗng nhiên không nhờ gởi. Hết thảy chẳng dính giữ, ở đi không ngăn ngại. Tới lui sanh tử giống như cửa thường mở hoác !” Tổ Bách Trượng đại từ thuận lời phát huy, thầm hợp với ý chỉ đoạn kinh này. Nơi đây mà thừa thọ, đảm đương được ngay thì Tình, Tưởng liền vượt thoát, chẳng kẹt vào tà kiến. Rốt là Như Lai hẳn khen “Hay thay” vậy.




  7. The Following User Says Thank You to Thiện Tâm For This Useful Post:

    sonha (01-21-2016)

  8. #507
    NỤ Avatar của Thiện Tâm
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    601
    Thanks
    275
    Thanked 229 Times in 156 Posts


    III. CHỈ RA MƯỜI TẬP NHÂN VÀ SÁU GIAO BÁO

    Kinh :

    “Anan, những điều như thế đều do nghiệp báo của các chúng sanh tự chiêu cảm lấy : Tạo mười Tập Nhân thì chịu sáu Giao Báo. “Anan, thế nào là mười Tập Nhân ?

    Một là thói quen dâm dục giao tiếp, phát sanh nơi sự cọ xát lẫn nhau. Cọ xát không thôi, như vậy cho nên trong ấy có ngọn lửa lớn phát động ra, như người lấy hai tay xoa xát lẫn nhau thì cảm giác nóng hiện ra. Hai cái tập khí thiêu đốt nhau, nên mới có các thứ giường sắt, cột đồng. Thế nên tất cả mười phương Như Lai xem việc Hành Dâm đồng gọi là lửa dục. Bồ Tát xem thấy Dâm Dục như tránh hầm lửa.

    “Hai là, thói quen tham lam, so đo tính toán, phát sanh nơi sự thu hút lẫn nhau. Hấp thu ôm ấp chẳng ngừng, như vậy cho nên trong ấy có chứa hơi lạnh thành giá cứng đông đặc, như người hút hơi gió vào thì cảm giác lạnh sanh ra. Hai cái tập khí lấn nhau, nên có những sự tra tra, ba ba, la la, sen sanh, đỏ, trắng, giá lạnh v.v... Bởi thế tất cả mười phương Như Lai xem việc Tham nhiều đồng gọi là nước tham. Bồ Tát xem thấy Tham như tránh biển độc.

    “Ba là, thói quen kiêu mạn lấn lướt lẫn nhau phát sanh nơi chỗ ỷ thế với nhau, giong ruổi không thôi, như vậy cho nên có sự phóng túng, bôn ba, chứa sóng thành nước, như người miệng lưỡi tự chép làm cho nước bọt sanh ra. Hai cái tập khí chọi nhau nên có các việc sông máu, sông tro, cát nóng, biển độc, nước đồng bắt uống... Thế nên, tất cả mười phương Như Lai xem lòng Ngã Mạn, đồng gọi là uống nước si mê. Bồ Tát xem thấy Kiêu Mạn như tránh vực thẳm lớn.

    “Bốn là, thói quen nóng giận xung đột lẫn nhau, phát sanh nơi sự chống đối lẫn nhau. Chống đối hoài không thôi, tâm nổi nóng phát ra lửa, nấu cái khí thành kim loại, như vậy cho nên có núi dao, đòn sắt, cội cây gươm, bánh xe gươm, búa rìu, thương, cưa, như người bị hàm oan thì sát khí nổi lên. Hai tập khí đánh nhau, nên có các sự thiến, cắt, chém, chặt, dùi, đâm, đập, đánh. Thế nên tất cả mười phương Như Lai xem sự Nóng Giận đồng gọi là kiếm, dao bén. Bồ Tát xem thấy Nóng Giận như tránh chém, giết.

    “Năm là, thói quen giả dối, dụ gạt lẫn nhau, phát sanh nơi sự lôi kéo lẫn nhau. Dẫn dụ chẳng ngừng, như vậy cho nên có dây, cây thòng lọng, căng nọc, như nước thấm xuống ruộng thì cỏ cây sanh trưởng. Hai tập khí kéo nhau nên có các sự gông, cùm, xiềng xích, roi, gậy, qua, bổng. Thế nên tất cả mười phương Như Lai xem sự Giả Dối đồng gọi là Sàm Tặc. Bồ Tát xem thấy Gian Dối như sợ sói, beo.

    “Sáu là, thói quen lừa gạt, phỉnh dối lẫn nhau, phát sanh nơi sự phỉnh gạt lẫn nhau. Phỉnh gạt chẳng thôi, phát tâm gây điều gian dối, như vậy cho nên có bụi, đất, đại tiện, tiểu tiện, dơ nhớp chẳng sạch; như bụi theo gió không thấy lẫn nhau. Hai cái tập khí dìm nhau nên có các sự chìm đắm, nhảy, ném, bay, rơi, trôi lăn. Thế nên tất cả mười phương Như Lai xem sự Lừa Gạt đồng gọi là cướp giết. Bồ Tát xem thấy việc Lường Gạt như dẫm rắn độc.

    “Bảy là, thói quen thù oán, hiềm khích lẫn nhau, phát sanh nơi chỗ ôm ấp lòng giận. Như vậy cho nên có quăng đá, ném gạch, cũi nhốt, xe tù, bình đựng, đảy bọc, như người hiểm độc ôm ấp điều dữ. Hai cái tập khí nuốt nhau, nên có các việc ném, quăng, nắm, bắt, đánh, bắn, vất, ôm. Thế nên tất cả mười phương Như Lai xem sự Thù Oán đồng gọi là quỉ Vi Hại. Bồ Tát xem thấy Thù Oán như uống rượu độc.

    “Tám là, thói quen tà kiến, tranh cãi với nhau. Như thân kiến, giới cấm thủ và các nghiệp hiểu biết sai lầm, phát sanh nơi chỗ chống trái lẫn nhau. Như vậy cho nên có quan lại chứng thực, nắm giữ giấy tờ, nhiều như người đi đường qua lại gặp nhau. Hai cái tập khí giao nhau nên có các sự khám hỏi, mưu chước, vặn hỏi, đòi hỏi, gạn xét, cứu tra cho rõ ràng và những đồng tử thiện ác tay cầm sổ sách, biện bạch, hạch sách. Thế nên tất cả mười phương Như Lai xem Ác Kiến đồng gọi là hố kiến chấp. Bồ Tát xem thấy các Thiên Chấp hư vọng như nhìn xuống hố độc.

    “Chín là, thói quen vu vạ làm hại cho nhau, phát sanh nơi chỗ phao vu, bài báng. Như vậy cho nên có núi khép, đá khép, cối nghiền, cối xay, như kẻ sàm tặc, áp bức vu oan người lương thiện. Hai cái tập khí bài xích lẫn nhau, nên có các việc áp giải, đè đập, ép máu, tuốt mình. Thế nên tất cả mười phương Như Lai xem sự Vu Vạ đồng gọi là cọp sàm báng. Bồ Tát xem thấy sự Vu Vạ như bị sấm sét.

    “Mười là, thói quen thưa kiện, cãi vã lẫn nhau, phát sanh ở chỗ che đậy. Như vậy cho nên có gương soi, đuốc chiếu, như giữa ban ngày chẳng thể giấu bóng. Hai cái tập khí phơi bày lẫn nhau, nên có các việc bạn ác, kiếng soi nghiệp, hỏa châu phơi bày nghiệp xưa mà đối nghiệm. Thế nên tất cả mươi phương Như Lai xem sự Che Đậy đồng gọi là giặc ngầm. Bồ Tát xem thấy sự Che Đậy như đội núi cao lội trong biển lớn.



    Lần sửa cuối bởi Thiện Tâm; 01-22-2016 lúc 04:18 PM

  9. #508
    NỤ Avatar của Thiện Tâm
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    601
    Thanks
    275
    Thanked 229 Times in 156 Posts


    Thông rằng :

    Đức Thế Tôn nói về mười Tập Nhân, mỗi mỗi phối hợp với sự việc trong địa ngục, không sai mảy tơ. Tập quán thì hẳn có nguyên nhân. Cái nhân đó chỉ có thể sanh ra các tướng nước, lửa, nhưng chưa có cái Dụng, lại thêm vào các thói quen giao tiếp đối đãi nhau mà thành sắt nóng, giá lạnh... các thứ. Nhưng mười phương Như Lai ở ngay trong chỗ nhân sanh khởi mà thấy suốt sự tốt, xấu nên chẳng có sự gì để tu. Bồ Tát thì biết rõ đó là cái họa hại nên thận trọng thanh khiết mà không phạm nên xa lánh chúng. Dù có địa ngục mà trước đã không có nhân, nên chỉ có Phật cùng Bồ Tát mới có thể nói là không có địa ngục vậy. Còn chưa đến Tâm, Hạnh như thế làm sao mà cho rằng tất cả là Không.

    Đức Di Lặc nói : “Trong Dục Giới có ba mươi sáu chốn. Đó là tám đại địa ngục. Sao là tám ? Một là Đẳng Hoạt, hai là Hắc Thằng, ba là Chúng Hợp, bốn là Hiệu Khiếu, năm là Đại Hiệu Khiếu, sáu là Thiêu Nhiệt, bảy là Cực Nhiệt, tám là Vô Gián. Các chốn địa ngục này rộng mười ngàn do tuần. “Ngoài những chỗ này lại có tám chốn địa ngục lạnh. Sao là tám ? Một là Pháo, hai là Pháo Liệt, ba là Hác Phàm, bốn là Hác Hác Phàm, năm là Hổ Hổ Phàm, sáu là Thanh Liên, bảy là Hồng Liên, tám là Đại Hồng Liên. Từ chỗ này xuống ba mươi hai ngàn do tuần thì đến Đẳng Hoạt. Từ chỗ này lại cách bốn ngàn do tuần thì có địa ngục khác như chốn đại địa ngục Đẳng Hoạt. Chốn địa ngục lạnh ở trước cũng vậy. Từ chỗ này lại cách hai ngàn do tuần có các địa ngục khác nữa”.

    Ngài lại dạy : “Ở trong đại địa ngục Đẳng Hoạt chịu nhiều cực hình khổ sở. Các hữu tình kia phần nhiều hướng về chỗ tạo nghiệp tăng thượng, sanh ra đủ thứ khổ, lần lượt khởi lên mà tàn hại lẫn nhau, chết giấc nằm lăn lóc trên đất. Khi ấy trên không có tiếng nói lớn, xướng lên rằng “Các hữu tình kia được sống trở lại hết thảy”. Liền đó, các hữu tình lại bỗng đứng dậy”.

    Xem đây thì rõ là địa ngục không phải là không có chỗ nhất định. Kinh Tịnh Độ Tam Muội nói : “Xưa Quốc Vương Tỷ Sa và Thủy Vương Duy Đà đánh nhau. Vua Duy Đà thua, phát thệ nguyện làm vua dưới đất. Khi ấy, bề tôi vua có mười tám người dẫn một trăm vạn người nguyện trên đầu mọc sừng theo vua giúp trị theo pháp để xử trị người có tội. Nay gọi là vua Diêm La, Ngưu Đầu, A Bàng đó vậy”. Xem đây thì rõ ràng địa ngục cùng thân thể chẳng phải từ mười phương đến, mà chỉ do ác nghiệp trói buộc sanh ra thân địa ngục vậy. Mười Tập Nhân : Dâm, Tham, Mạn, Sân, Trá, Cuống, Oán, Ác Kiến, Vu Vạ và Kiện Tụng tương tự như năm mươi mốt Tâm Sở : Phẫn, Hận, Não, Phú, Cuống, Siểm, Kiêu, Hại... Nhưng vì sao tóm lại thành mười ? Ở đây, chỉ kể các nghiệp bất thiện.

    Cho nên Tham, Sân, Mạn và Tà Kiến thuộc về Ý Nghiệp, mà Mạn được gọi là uống nước Si, thì trong đã có Si vậy. Oán, Sân và Dâm thuộc về Thân Nghiệp mà tập khí Oán, Sân, Sát... thì Sát, Đạo đã ở trong đó vậy. Cuống, Trá, Vu Vạ, Kiện Tụng thì ý nghĩa cũng tương tự. Vì sao phân ra bốn ? Vì đó là bốn cái thuộc về Khẩu Nghiệp. Cho nên Cuống là Vọng Ngữ, Trá là Ỷ Ngữ, Vu Vạ là Lời Ác, và Kiện Tụng là Lưỡng Thiệt. Dâm là chỗ tự đến của thân kiến, lại là gốc ban đầu tạo nghiệp nên đầu hết nêu ra Dâm. Dâm do cọ xát mà sanh lửa. Tham do thu vào mà sanh nước. Tương tự như người dương thịnh thì nằm mộng thấy lửa, người âm thịnh thì nằm mơ thấy nước. Giường sắt, cột đồng là cái thói quen chồng chất của Vọng Tưởng ôm giữ, nằm nghỉ lâu dài vậy. Ba ba, tra tra, la la là âm thanh rên chịu lạnh. Đó là tên khác của hổ hổ, hác hác. Sen xanh, đỏ, trắng là màu của băng lạnh vậy. Nước Si ở Thiên Trúc có, hễ uống vào thì si mê, cùng loại với nước suối tham, uống vào thì á khẩu, to bụng. Sự kiêu dật cũng có mùi vị ấy nên người cùng siểm nịnh thì như ngâm trong nước bẩn mà chẳng tự biết. Thói quen dâm dục do nóng bức mà phát hỏa, tự hao tinh khí. Thói quen nóng giận do nghịch khí phát hỏa, làm mạnh thêm khí nóng. Hỏa khắc Kim nên nung đốt cái Khí khiến cho Khí tuy cứng mà phải tự thương tổn.

    Thói quen dối trá nương nơi gian dối mà khởi ác, ban đầu là cười vui, kế đến là lan man. Cái trí xảo như nước nên giả dối lấy trí mẹo làm đầu, như beo sói tuy rất nhỏ mà có thể ăn cọp. Thói quen lừa gạt thì giả vờ có đức hạnh khiến người khác mê mờ, ví như gió nổi bụi khiến người không thấy. Bởi thế sự cướp hại, lừa người không thấy cũng như rắn độc bất ngờ cắn người vậy. Giận dữ lộ ra ngoài nên sát khí nổi lên, thuộc về Sát. Oán ghét chứa bên trong nên ôm giữ độc ác như lấy bao trùm người mà đánh, đó là việc ám muội, tức thuộc về trộm. Quỉ Vi Hại, rượu chim Cưu đều là âm độc.

    Thói quen tà kiến có năm : Một là Thân Kiến, là chấp thân có thực nên toan tính đủ điều. Hai là Biên Kiến, đó là với tất cả các pháp chấp là Đoạn, là Thường. Ba là Tà Kiến, là hiểu sai ngộ lầm, bác bỏ không có Nhân Quả. Bốn là Kiến Thủ, đó là chẳng phải thật Quả mà cho là Quả, ví như lấy cõi trời Vô Tưởng mà cho là Niết Bàn. Năm là Giới Cấm Thủ, đó là chẳng phải Nhân mà cho là Nhân, ví như giữ giới chó, bò... mà cho là Nhân để sanh cõi Trời. Năm Tà Kiến này gọi chung là ác kiến, tương phản lẫn nhau, như người đi đường, kẻ đi người lại, chỗ thấy biết trái khác nhau, nên cần phải khám hỏi. Ép uổng người lương thiện, chẳng vặn vẹo mà làm ra vặn vẹo, nên bị ép cái xác, khô kiệt máu huyết, hoặc cân đo máu và xác cho đúng lượng, như loài súc vật vậy.

    Thói quen kiện tụng thì do đây kia, sanh ra chuyện kiện thưa, đâm ra nhọc nhằn, giống như đội núi mà đi dưới biển, Bồ Tát há chịu làm ư ? Năm Kiến Chấp và Tham, Sân, Si, Mạn đoạn rồi thì chứng quả Thứ Ba là Đoạn Trừ Hoặc của chín phẩm của địa dưới. Còn các Hoặc(56) này chẳng có đoạn thì tạo nghiệp không ngớt, có nhân thế nào thì quả phải thế ấy.

    Xưa, có Ông Lý Lưu Hậu, tự Đoan Nguyện hỏi thiền sư Đạt Quan rằng : “Người chết rồi đi về đâu ?”
    Tổ Quan nói : “Chưa biết sống sao biết chết ?”
    Ông Lý nói : “Sống thì Đoan Nguyện này biết rồi”.
    Tổ Quan nói : “Sống từ đâu đến ?”
    Ông Lý trầm ngâm.
    Tổ vỗ vào ngực, nói : “Chỉ tại trong ấy, suy nghĩ cái gì ?”
    Ông Lý : “Dạ, hiểu. Chỉ biết đường ham, ngờ đâu lạc nẻo !”
    Tổ khoát gạt ra, bảo : “Trăm năm một giấc chiêm bao”.
    Ông Lý lại hỏi : “Địa ngục rốt cùng là có hay không ?”
    Tổ đáp : “Chư Phật hướng về trong Không mà nói Có : mắt thấy Không-hoa. Ông lại ở trong Có tìm Không : tay mò trăng dưới nước. Nực cười thay trước mắt thấy nhà tù mà không tránh, ngoài tâm thấy thiên đường mà muốn sanh về ! Đâu biết thích sợ tại tâm thì thiện ác thành tựu. Ông chỉ rõ biết Tự Tâm, tự nhiên không nghi hoặc !”
    Ông Lý hỏi : “Tâm làm sao rõ ?”
    Tổ đáp : “Thiện ác thảy chẳng suy lường !”
    Ông lại hỏi : “Chẳng suy lường rồi, tâm về chốn nào ?”
    Tổ nói : “Mời Thái Úy về sở làm”.
    Tổ Động Sơn hỏi nhà sư : “Ở đời cái gì là khổ nhất ?”
    Nhà sư đáp : “Địa ngục khổ nhất”.
    Tổ Sơn nói : “Không phải đâu ! Ngoảnh về dưới sợi chỉ dệt áo này mà chẳng rõ chuyện đại sự, ấy mới khổ”.
    Ngài Đơn Hà tụng rằng :

    “Vạc sôi lò lửa bao nhiêu chuyện
    Địa ngục, tam đồ khổ hết than !
    Phải tin Tổ Động, lời thân thiết
    Dưới lớp cà sa chớ mơ màng !”.


    Rõ đại sự thì không có nhân địa ngục, nên địa ngục chưa phải là khổ. Còn chẳng rõ Tự Tâm thì khổ hết chỗ than !



  10. #509
    NỤ Avatar của Thiện Tâm
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    601
    Thanks
    275
    Thanked 229 Times in 156 Posts


    Kinh :

    “Thế nào là sáu Giao Báo ?

    “Anan, hết thảy chúng sanh sáu Thức tạo nghiệp nên chiêu lấy ác báo từ sáu căn ra.
    “Thế nào là Ác Báo từ sáu Căn ra ?

    “Một là, Ác Báo về Thấy chiêu dẫn ác quả. Nghiệp Giao Báo về thấy này là khi lâm chung, trước hết thấy lửa hừng đầy cả mười phương, thần thức người chết bay đọa theo khói vào ngục Vô Gián, phát sanh hai tướng : Một là, thấy sáng thì thấy khắp các thứ vật dữ, sanh sợ hãi ghê gớm. Hai là, thấy tối thì lặng soi chẳng thấy gì sanh hoảng sợ vô cùng. Lửa-thấy như vậy đốt cái nghe thì có thể làm thành vạc sôi, đồng chảy; đốt hơi thở thì có thể làm thành lửa đỏ, khói đen; đốt cái nếm thì có thể làm thành hòn lửa, cơm sắt; đốt cảm xúc thì có thể làm tro nóng, lò than; đốt tâm thức thì có thể sanh sao lửa rưới khắp, làm rung động cõi hư không.

    “Hai là, Ác Báo về Nghe chiêu dẫn ác quả. Nghiệp Giao Báo về Nghe này là khi lâm chung, trước hết thấy sóng cuộn ngập chìm trời đất, thần thức người chết sa xuống theo dòng nước vào ngục Vô Gián, phát sanh hai tướng : Một là, nghe rõ thì nghe đủ thứ ồn ào, tinh thần bấn loạn. Hai là, điếc hẳn, lặng ngất không nghe thấy gì, thần phách chìm đắm. Sóng nghe như vậy rót vào cái nghe thì có thể làm thành trách móc, cật vấn; rót vào cái Thấy thì có thể làm thành sấm, thành tiếng rống, làm hơi độc dữ; rót vào hơi thở thì có thể làm thành mưa thành mù, rưới các sâu độc đầy khắp thân thể; rót vào cái nếm thì có thể làm thành mủ, máu, các thứ dơ bẩn; rót vào cảm xúc thì có thể làm súc vật, làm quỉ, làm phân, làm nước tiểu; rót vào tâm ý có thể làm thành chớp, mưa đá, đập nát tâm phách.

    “Ba là, Ác Báo về Ngửi chiêu dẫn ác quả. Nghiệp Giao báo về ngửi này là khi lâm chung, trước hết thấy hơi độc đầy dẫy xa gần, thần thức người chết từ đất trỗi lên vào ngục Vô Gián, phát sanh hai tướng : Một là, ngửi thông thì bị các hơi độc xông tột bực làm cho tâm rối loạn. Hai là, nghẹt mũi, hơi ngạt không thông, nằm chết giấc trên đất. Hơi ngửi như vậy xông vào hơi thở thì có thể làm thông, làm ngạt; xông vào cái thấy thì có thể làm thành lửa, thành đuốc; xông vào cái nghe thì có thể làm chìm ngập, làm chết đuối, làm nước lớn, làm nước sôi; xông vào cái nếm thì có thể làm sình, làm thối; xông vào cái cảm xúc thì có thể làm xấu, làm nát, làm ra núi thịt lớn có trăm ngàn con mắt, hút ăn không cùng; xông vào ý nghĩ thì có thể làm ra tro, ra khí độc, làm gạch đá bay lên đánh nát cơ thể.

    “Bốn là, Ác Báo về Nếm chiêu dẫn ác quả. Nghiệp Giao Báo về nếm này là khi lâm chung, trước hết thấy lưới sắt nung đỏ che khắp thế giới, thần thức người chết từ dưới tung lên, mắc lưới treo ngược đầu xuống vào ngục Vô Gián, phát sanh hai tướng : Một là, nuốt vào thì kết thành giá lạnh làm nứt nẻ thân thể. Hai là, mửa ra thì bay lên thành lửa hừng, tiêu rụi xương tủy. Nếm biết như vậy, qua cái nếm thì có thể làm ra nhận ra chịu; qua cái Thấy thì có thể làm ra các thứ kim thạch đốt cháy; qua cái Nghe thì có thể làm binh khí sắc bén; qua hơi thở thì có thể làm lồng sắt rộng che hết cõi nước; qua cảm xúc thì có thể làm thành cung, thành tên, làm nỏ, làm bắn; qua ý nghĩ thì có thể làm sắt nóng bay, từ trên không rưới xuống.

    “Năm là, Ác Báo về Xúc chiêu dẫn ác quả. Nghiệp Giao Báo về Xúc này là khi lâm chung, trước hết thấy núi lớn bốn mặt áp lại không còn lối ra, thần thức người chết thấy thành sắt lớn, rắn lửa, chó lửa, cọp sói, sư tử, lính ngục đầu trâu, la sát đầu ngựa tay cầm giáo chĩa lùa vào cửa thành hướng về ngục Vô Gián, phát sanh hai tướng : Một là, hợp xúc thì núi ép kẹp mình, xương thịt nát ra máu. Hai là, lìa xúc thì đao kiếm chạm đụng mình, tim gan cắt xẻ. Xúc hợp như vậy qua cái xúc thì có thể làm ra đường, ra quán, làm nha sảnh, làm tòa án; qua cái thấy thì có thể làm đốt, làm nung; qua cái nghe thì có thể làm thành đập, đánh, đâm, bắn; qua hơi thở thì có thể làm thành trùm, đẩy, tra, trói; qua cái nếm thì có thể làm cày, làm kềm, chém, chặt; qua ý nghĩ thì có thể làm rớt, làm bay, làm nấu, làm nướng.

    “Sáu là, ác báo về Ý chiêu dẫn ác quả. Nghiệp Giao Báo về Ý này là khi lâm chung, trước hết thấy gió dữ thổi nát cõi nước, thần thức người chết bị thổi lên trên không, xoay rơi theo gió, sa vào ngục Vô Gián, phát sanh hai tướng : Một là, không biết, tột mê thì hoang mang, rông chạy không ngừng. Hai là, chẳng mê, hay biết thì khổ, bị nung đốt không cùng, đau buốt không chịu nổi. Ý lầm lạc như vậy kết vào ý nghĩ thì có thể làm thành nơi, làm chốn; kết vào cái thấy thì có thể làm gương soi, làm chứng cớ; kết vào cái nghe thì có thể làm ra núi lớn xáp vào nhau, làm ra giá, ra sương, ra đất, ra mù; kết vào hơi thở thì có thể làm ra xe lửa lớn, làm thuyền lửa, làm rọ lửa; kết vào cái nếm thì có thể làm kêu la to, làm ăn năn, làm khóc lóc; kết vào cái xúc thì có thể làm ra lớn, làm ra nhỏ, làm cho trong một ngày vạn lần sống, vạn lần chết, làm té sấp, té ngửa.

    “Anan, đó là mười Tập Nhân và sáu Quả Báo của địa ngục. Nhân quả ấy đều do cái mê vọng của chúng sanh tạo ra. Nếu các chúng sanh tạo hết các nghiệp dữ thì vào địa ngục A Tỳ, chịu vô lượng khổ, trải qua vô lượng kiếp. Các căn trong sáu căn tạo riêng và nghiệp tạo ra gồm cả căn lẫn cảnh thì người ấy vào tám địa ngục Vô Gián. Ba thứ thân, khẩu, ý làm ra Sát, Đạo, Dâm thì người đó vào Thập Bát Địa Ngục. Không đủ cả ba nghiệp, trong đó chỉ có một cái hoặc Sát hay Đạo thì người ấy vào trong Tam Thập Lục Địa Ngục. Chỉ có một Căn riêng phạm một nghiệp, người ấy vào Nhất Bách Bát Địa Ngục.

    “Đó là do chúng sanh riêng làm, riêng tạo, nên ở trong thế giới vào chỗ đồng phận, duyên từ Vọng Tưởng phát sanh, chẳng phải vốn là tự có.



  11. #510
    NỤ Avatar của Thiện Tâm
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    601
    Thanks
    275
    Thanked 229 Times in 156 Posts


    Thông rằng :

    Chỗ hiện báo chuốc lấy của mười Tập Nhân là từ kiến phần sanh ra. Có Nhân ấy thì có Báo ấy, mỗi tùy theo loại. Sáu cái Giao Báo ấy là do sáu thức căn trần gồm thành tướng phần. Hiện báo lúc lâm chung và quả báo sanh vào địa ngục tuy chẳng lìa các căn nhưng khi tạo ác nghiệp của mười Tập Nhân thì sáu căn đều sử dụng, nên một căn chịu ác báo thì sáu căn cũng giao nhau cái ác báo đó vậy. Ví như một cái nghiệp tham mùi vị : Lưỡi nếm sanh mạng khiến các cái kia cũng chịu lây. Cho nên khi Lưỡi chịu quả báo vì món ăn này mà dùng lửa nấu nướng, nên cái thấy là sắt đá nóng; vì món ăn này, quay nướng thơm tho nên hơi thở là lồng sắt lớn. Vì món ăn này bắn giết thú, chim nên xúc là tên cung nỏ. Vì món ăn này, mong tưởng khát khao nên ý nghĩ là sắt nóng bay. Đó là sáu Giao Báo của Thiệt Căn, các căn khác có thể từ đó suy ra vậy.

    Bộ Hiệp Luận dẫn kinh Dịch để chứng minh : Ly là mắt, Khảm là tai, Cấn là mũi, Đoài là miệng, Khôn là thân, suy nghĩ lại là Ly - Hỏa của địa vị tâm. Đốt cái nghe thì Ly Hỏa biến nơi Khảm Thủy nên làm ra vạc sôi, đồng chảy. Đốt hơi thở thì Ly Hỏa biến nơi Cấn Thổ nên làm ra khói đen, lửa đỏ. Đốt cái nếm thì Ly Hỏa biến nơi Đoài Kim nên làm ra hòn lửa, cơm sắt. Đốt cái xúc thì Ly Hỏa biến nơi Khôn Thổ nên làm ra tro nóng, lò than. Đốt tâm thức thì Ly Hỏa biến nơi Ly Hỏa của địa vị Tâm nên làm ra lửa sao rưới khắp. Đối với sự đốt cái thấy thì nghĩa đồng nhau, nên không lập lại, chứ không phải sót. Mỗi mỗi suy ra khá phù hợp, có vẻ mới lạ.

    Sáu Căn cùng tạo tác đủ cả mười nghiệp thì quả là đọa vào địa ngục A Tỳ Vô Gián. Nghiệp đã không gián đoạn thì khổ cũng vô gián. Nếu một căn mà gồm đủ ba, bốn căn; trong mười nghiệp mà thiếu hai, ba nghiệp; và ba thứ Thân, Khẩu, Ý chẳng hết cả sáu căn, tạo nghiệp Sát, Đạo, Dâm không đủ cả mười Tập Nhân, hoặc đủ hai khuyết một, hoặc phạm một thiếu hai thì nghiệp nhẹ hơn nên khổ ít hơn. Nghiệp tuy mỗi người tạo riêng nhưng khổ thì cùng chịu, nặng nhẹ chẳng bằng nhau, mỗi mỗi đều có chỗ sẵn, hết thảy do sáu căn làm môi giới vậy.

    Ở đoạn trước, mười phương vi trần Như Lai khác miệng đồng lời, nói với Ông Anan rằng : “Lành thay ! Anan, ông muốn biết về cái câu sanh Vô Minh. Cái khiến ông luân chuyển, kết căn của sanh tử chỉ là sáu căn của ông chứ chẳng phải gì khác. Ông lại muốn biết Vô Thượng Bồ Đề, khiến ông chóng chứng an lạc giải thoát tịch tỉnh diệu thường, cũng là sáu Căn của ông chứ chẳng phải gì khác !” Ôi, một Căn tạo nghiệp thì sáu Căn chịu ác báo là như vậy. Một Căn thanh tịnh thì các Căn được thanh tịnh cũng là như vậy. Cơ mê ngộ chỉ trong khoảng sấp ngửa bàn tay ! Bởi thế, thấy biết mà xoay lại thì lửa chẳng thể đốt. Thấy, Nghe xoay về thì nước chẳng thể chìm. Chỉ khiến một Căn về nguồn, sáu Căn liền giải thoát. Đã không có nghiệp nhân thì cái gì là nghiệp quả ? Vọng Tưởng chẳng sanh, khắp khắp là chân tịnh. Lại còn có địa ngục nào ư ?

    Tổ Dược Sơn chỉ dạy đại chúng rằng : “Tổ Sư chỉ dạy các ông bảo hộ. Tham, Sân nổi lên, một mực đề phòng, ngăn cấm. Chẳng có dạy thôi cảm xúc. Ấy là tự ông muốn như cây khô, tảng đá ! Lại cần gánh vác, thật không có lá cành chi khá được. Tuy nhiên như thế, lại nên tự xem, chẳng được tuyệt bỏ lời lẽ nói năng. Ta nay vì các ông nói ra cái lời lẽ ấy, hiển bày cái không lời. Cái ấy xưa nay vốn không có các thứ tai, mắt !”

    Khi ấy, có nhà sư hỏi : “Sao có sáu đường chúng sanh ?”

    Tổ Sơn nói : “Ta nơi yếu luân đây, tuy ở trong đó, vốn là chẳng nhiễm !”

    Hỏi : “Chẳng rõ phiền não trong thân thì như thế nào ?”

    Tổ Sơn nói : “Phiền não là cái tướng trạng gì ? Ta lại muốn ông xét xem coi, lại có một thứ gì chăng? Chỉ xem trên lưng giấy ba thứ ngữ ngôn ghi chép thì đa phần bị Kinh, Luận làm cho lầm lạc. Tôi chẳng từng xem sách vở, Kinh, Luận gì ráo ! Ông chỉ vì mê nơi Sự mà bỏ chạy. Tự mình chẳng định nên bèn có sanh tử tâm ! Chưa từng học được một lời hay nửa câu, một Kinh một Luận nào thì nói cái gì Bồ Đề với Niết Bàn, thế với xuất thế ? Còn cứ Bồ Đề, Niết Bàn, thế với xuất thế, đó là sanh tử. Như chẳng bị sự được, mất ràng buộc tức là không có việc sanh tử. Ông có thấy luật sư nói các đề mục trong Giới Luật thế ấy chính là cội gốc sanh tử. Tuy nhiên như thế, nghiên cứu rốt ráo sanh tử bèn chẳng thể đắc.

    “Trên đến Chư Phật, dưới đến sâu kiến, trọn cả đều có Cái Ấy, dù cho dài ngắn tốt xấu chẳng đồng. Cái Ấy chẳng từ ngoài đến thì chỗ nào có người rỗi rảnh đào địa ngục chờ ông ? Ông muốn biết nẻo địa ngục thì nay đây chỉ cái kẻ nấu vạc nước sôi là đó. Muốn biết nẻo ngạ quỉ thì nay đây chỉ cái kẻ nhiều dối, ít thật, khiến người không tin là đó. Muốn biết nẻo súc sanh thì hiện đây kẻ không biết nhân nghĩa, không rõ thân sơ là đó. Há đợi gì mang lông đội sừng, chặt cắt, treo ngược ư ? Muốn biết trời, người thì chỉ nay đây người oai nghi trong sạch, ôm bát trì bình là đó. Thiết thân bảo nhậm thì khỏi đọa các nẻo. Thứ nhất là chẳng được vất bỏ Cái Ấy. Cái Ấy chẳng phải là dễ được. Cần hướng về đỉnh núi chót vót mà đứng, đáy biển mịt mù mà đi ! Chỗ ấy không dễ dàng đi đứng mới có chút phần tương ứng.

    “Như nay bày ló ra đều là người lắm chuyện, thì làm sao mà tìm cái người si độn kia cho được !

    Đừng chỉ ghi nhớ lời lẽ trong sách mà làm cái thấy biết của mình, thấy người không hiểu thì sanh ra khinh mạn. Cái đám đó đều là ngoại đạo, xiển đề có ăn nhằm gì cái Tâm Ấy đâu ! Cần miên mật mà xét cho thấu suốt ! Có nói như vậy cũng vẫn còn là chuyện bờ mé của tam giới !

    “Ở dưới lớp áo thầy tu chớ có bỏ luống qua. Đến trong ấy lại càng tế vi nhặt nhiệm ! Chớ có rỗi nhàn, cần nên trân trọng !”
    Lại như Tổ Mục Châu cùng vị giảng sư đang uống trà.
    Tổ Mục Châu nói : “Tôi cứu ông chẳng được đâu !”
    Nhà sư đáp : “Dạ, tôi hiểu, xin thầy chỉ bày”.
    Tổ Châu chỉ cái bánh chiên, hỏi : “Đó là cái gì vậy ?”
    Nhà sư đáp : “Sắc pháp !”
    Tổ Châu nói : “Cái gã chun vào vạc dầu sôi này ! Chẳng kể tại gia hay xuất gia, chỉ là tự gây nghiệp, gồm căn, gồm cảnh mà chẳng được giải thoát !”
    Kỳ dị thay lời lẽ của hai Ngài Dược Sơn, Mục Châu !



  12. The Following User Says Thank You to Thiện Tâm For This Useful Post:

    socnho (01-25-2016)

Thông tin chủ đề

Users Browsing this Thread

Hiện có 3 người đọc bài này. (0 thành viên và 3 khách)

Quyền viết bài

  • Bạn không thể gửi chủ đề mới
  • Bạn không thể gửi trả lời
  • Bạn không thể gửi file đính kèm
  • Bạn không thể sửa bài viết của mình
  •