DIỄN ĐÀN PHẬT PHÁP THỰC HÀNH - Powered by vBulletin




Cùng nhau tu học Phật pháp - Hành trình Chân lý !            Hướng chúng sinh đi, hướng chúng sinh đi, để làm Phật sự không đối đãi.


Tánh Chúng sinh cùng Phật Quốc chỉ một,
Tướng Bồ Đề hóa Liên hoa muôn vạn.

Trang 58/59 ĐầuĐầu ... 84856575859 CuốiCuối
Hiện kết quả từ 571 tới 580 của 588
  1. #571
    NỤ Avatar của Thiện Tâm
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    601
    Thanks
    275
    Thanked 229 Times in 156 Posts


    Kinh :

    “Lại nữa, thiện nam tử ấy cùng tột tánh không của Hành Ấm, đã diệt sanh diệt, nhưng chưa viên mãn trong chỗ tinh diệu của Tịch Diệt. Xét Mệnh Căn thông lẫn với nhau, lại muốn giữ lại nơi trần lao, sợ nó tiêu hết. Bèn ở giới hạn này, ngồi cung liên hoa, hóa ra nhiều thứ bảy báu cùng nhiều mỹ nữ, buông lung tâm mình mà sanh thắng giải. Người ấy sa vào cái chấp Chân Vô Chân thành bè bạn của nhóm Tra Chỉ Ca La, mê lầm Bồ Đề của Phật, bỏ mất Chánh Tri Kiến.

    “Đó gọi là hạng Thứ Tám, lập cái nhân Tà Tư(19) thành cái quả Xí Trần(20), trái xa tánh Viên Thông, đi ngược đạo Niết Bàn, sanh ra giống Thiên Ma.



    Thông rằng :

    Thức Ấm là cái cội nguồn mạng sống của mười hai loài chúng sanh. Mệnh của mình thông với kia, mệnh của kia thông với mình, nên gọi là thông lẫn nhau. Nếu Thức Ấm hết thì mạng của chúng sanh mười phương lập tức hết ráo, mạng mình cũng hết, ai chứng lý Chân Thường ? Ai giáo hóa chúng sanh ? Chỉ có Chân Thường mà không có người chứng Chân Thường, nên sợ tiêu hết, muốn ở lại nơi trần lao mà độ thoát chúng sanh. Ban đầu ngồi cung liên hoa, biến hóa ra nhiều các thứ bảy báu, ý chẳng phải xấu. Kế rồi thêm nhiều mỹ nữ, phóng túng tâm mình thì cái tà tư xen vào rồi vậy. Nương theo cái tà tư này mà muốn chứng Chân Thường, khởi ra cái Dụng biến hóa mà không biết lỗi lầm nên gọi là cái chấp Chân Vô Chân.
    Tra Chỉ Ca La là trời Tha Hoá Tự Tại ở trên đỉnh Dục Giới, hay biến hóa ra cảnh Dục để tự vui thích. Trời Tha Hóa chưa hẳn đều là ma, nhưng việc thần biến của Ma Vương cũng cùng loại nên có ở chung. Chỉ vì dục trần như lửa nên gọi là Xí Trần. Mười loại Thiên Ma ở trước (Tưởng Ấm) đều lén làm việc tham Dục, đó là chỗ phát ra của Tà Tư, chẳng thể cấm ngăn. Không bám trước thì gọi là Trời, có bám trước thì gọi là Ma. Kinh Pháp Hoa nói : “Các ông chớ nên thích ở cái nhà lửa của ba cõi. Không nên tham các thứ Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc thô tệ. Nếu tham bám sanh ra Ái liền bị thiêu đốt”.

    Xưa, Ông Uất Đầu Lam Phất dùng cái trí thế tục hàng phục được những mê lầm bậc thấp, được Phi Tưởng Định, đủ năm thứ Thần Thông. Nhà vua bấy giờ tôn trọng, mời vào cung, các cung nữ đón lấy chân ông mà làm lễ. Ông Uất Đầu Lam Phất tiếp xúc với tay người nữ, bèn sanh ham muốn, liền mất Thần Thông. Ăn xong, đi bộ từng bước về núi.
    Nên chi có bài kệ rằng :

    “Vừa sanh một niệm Dục
    Liền mất Ngũ Thần Thông”.


    Loại Thiên Ma thích biến hóa này, do trấn áp Thức Ấm mà được, nên hễ nghĩ bậy phát ra là mất. Quả báo Thần Thông đã hết thì rơi vào sự chìm đắm. Cái vui này đâu có thể thường, nên gọi là Chân Vô Chân vậy.

    Như chỗ hiện thần lực của đại sĩ Duy Ma, lúc ấy Phật Tu Di Đăng Vương khiến cho ba vạn hai ngàn tòa sư tử rộng lớn nghiêm tịnh đến nhập vào thất của Đức Duy Ma Cật. Các vị Bồ Tát, Đại Đệ Tử, Đế Thích, Phạm Thiên, Tứ Thiên Vương thấy điều xưa giờ chưa từng thấy là cái thất rộng lớn mênh mông chứa trọn ba vạn hai ngàn tòa sư tử không hề trở ngại.

    Thiền sư Bảo Giác nói : “Cho tòa sư tử là cao rộng, thất Tỷ Da là nhỏ hẹp, nghĩ đến cái khoảng chất chứa liền thành ra trở ngại. Đây là lực Thần Thông chân thật, nên chẳng thể nghĩ bàn !”



  2. #572
    NỤ Avatar của Thiện Tâm
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    601
    Thanks
    275
    Thanked 229 Times in 156 Posts
    Kinh :

    “Lại nữa, thiện nam tử ấy đã cùng tột tánh không của Hành Ấm, đã diệt sanh diệt, nhưng chưa viên mãn trong chỗ tinh diệu của Tịch Diệt. Ở trong chỗ cội gốc rỗng sáng của Mạng Căn, phân biệt cái tinh, cái thô để quyết rõ Chân, Ngụy. Nơi nhân quả đền đáp, chỉ cầu cảm ứng, trái ngược với đạo thanh tịnh là thấy Khổ, đoạn Tập, chứng Diệt, tu Đạo mà ở nơi chỗ Diệt cho là xong, không chịu tiến tới rồi sanh thắng giải. Người ấy sa vào hàng Định Tánh Thanh Văn, thành bạn bè của nhóm tăng Vô Văn là những người tăng thượng mạn, mê lầm Bồ Đề của Phật, bỏ mất Chánh Tri Kiến.
    “Đó gọi là hạng Thứ Chín, cố viên thành cái tâm Tinh Ứng, thành cái quả Thú Tịnh, trái xa tánh Viên Thông, đi ngược đạo Niết Bàn, sanh ra giống Triền Không.


    Thông rằng :

    Thức Ấm hiển lộ nên gọi là gốc Mạng Căn rỗng sáng. Cái Thức thì ngậm chứa chủng tử hữu lậu và vô lậu. Nay ở trong đó phân biệt lựa chọn : Khổ, Tập là hữu lậu, gọi rằng thô, rằng ngụy; Đạo, Diệt là vô lậu, gọi rằng tinh, rằng chân. Chọn bỏ đi cái Khổ, Tập thô, ngụy mà giữ lại cái Diệt, Đạo tinh, chân. Tu Đạo là cảm, chứng diệt là ứng. Ý chỉ muốn nắm lấy điều này, chẳng chịu tiếp thêm. Đây là pháp luân Tứ Đế, vốn tu viên quán Pháp Giới bình đẳng, lìa cái dơ nhị biên, gọi là Thanh Tịnh Đạo.

    Nay lại phát khởi cái tri giải “Ưa, Ghét” của Tiểu Thừa, chẳng rời nhân quả, dừng ở chỗ Diệt Đế mà ngừng nghỉ, đó là cái dơ của phía thanh tịnh, nên gọi là trái ngược. Hướng về chỗ tịnh lặng, bị ràng buộc nơi cái trống không, chứng nơi pháp Chân riêng lệch, so với cái đoạn diệt ở trước có hơi khác. Ở trước là một bề hướng về Không, thuộc về trời Vô Tưởng. Còn đây thì có Diệt Đế để chứng, thuộc về Tứ Không Thiên hay là ràng buộc nơi cái Không, mong viên thành tâm cảm ứng nên bị sự tịch lặng ràng buộc, không thể hướng về Đại Thừa.

    Hàng định tánh Thanh Văn đã chứng Bát Định nhưng chưa chứng Lậu Tận, vướng mắc vào giáo pháp Tứ Đế, nên Phật gọi là Thanh Văn, không thể phát ngộ cầu tiến đến Vô Thượng Bồ Đề. Khi nghe đức Phật nêu lên pháp môn Đốn Giáo thì bèn bỏ chỗ rút lui, ấy gọi là Tăng Thượng Mạn. Chưa đắc cho là đắc, rốt rồi thuộc về nhóm Tỳ Kheo Vô Văn.

    Người xưa nói “Chớ giữ cỏ lạ xanh hang lạnh. Mây trắng ngồi yên chẳng nhiệm mầu”. Bởi thế, am chủ Liên Hoa đưa cây gậy lên, chỉ bày đại chúng : “Người xưa đến trong ấy, vì sao chẳng chịu trụ ?”

    Đại chúng không có lời đáp.

    Tổ tự thay thế nói rằng : “Vì kia đường lối chẳng đắc lực !”

    Lại nói : “Rốt ráo là sao ?”

    Lại tự thay thế nói rằng : “Đòn gánh vác ngang chẳng đoái người. Thẳng vào ngàn, muôn đỉnh núi đi”.

    Ngài Tuyết Đậu tụng rằng :

    “Trong mắt : cát bụi; trong tai : đất
    Ngàn ngọn, muôn ngọn nào chịu ở
    Hoa rơi nước chảy cùng man mác
    Dựng đứng lông mày, chỗ nào đi ?”.


    Lại có nhà sư hỏi thiền sư Vân Cư Giản : “Đỉnh côi độc ở thì thế nào ?”
    Tổ Cư nói : “Trong chín gian tăng đường chẳng có nằm, ai dạy ông đỉnh côi độc ở ?”
    Ngài Đơn Hà tụng rằng :

    “Pháp thế, không tu, vốn trọn phần
    Bình thường thù đáp quá phân minh
    Tuy rằng chỉ thẳng Trường An lối
    Khổ nỗi khách chơi chẳng bộ hành !”.


    Bậc Thanh Văn hướng về Tịch Lặng, còn thuộc về công phu tu tập. Pháp là như thế, chẳng có sự Tu, đó là chân Tịch Diệt. Hạng độn căn kia chẳng chịu rõ chỗ này.



  3. #573
    NỤ Avatar của Thiện Tâm
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    601
    Thanks
    275
    Thanked 229 Times in 156 Posts


    Kinh :

    “Lại nữa, thiện nam tử ấy đã cùng tột tánh không của Hành Ấm, đã diệt sanh diệt, nhưng chưa viên mãn trong chỗ tinh diệu của Tịch Diệt. Nếu ở trong tánh Giác Minh thanh tịnh viên dung phát minh chỗ thâm diệu bèn lập đó là Niết Bàn mà không tiến tới, sanh làm thắng giải, thì người ấy sa vào hàng định tánh Bích Chi, thành bạn bè của các vị Duyên Giác, Độc Giác chẳng hồi tâm hướng Đại Thừa, mê lầm Bồ Đề của Phật, bỏ mất Chánh Tri Kiến.

    “Đó gọi là hạng Thứ Mười, viên thành Giác Tâm vắng lặng, thành cái quả Trạm Minh, trái xa tánh Viên Thông, đi ngược đạo Niết Bàn, sanh ra hạng giác Viên Minh, mà không dung hóa được tánh Viên.




    Thông rằng :

    Đã thanh tịnh viên dung, thì những gì trái ngược với Đạo chẳng thể bì kịp. Đối trong bốn đức Thường, Lạc, Ngã, Tịnh đã gần rồi vậy, chỉ vì chấp mà chưa dung hóa đó thôi. Kia lấy Giác làm Minh, thấy cái Viên thì vướng kẹt nơi Viên, thấy cái Minh thì vướng kẹt nơi Minh. Minh nên không lầm nơi chỗ cảm ứng nhân quả. Viên nên chẳng lẫn nơi chỗ Diệt cho là xong, ở chỗ này mà phát minh được sự thâm diệu. Thâm lại càng thâm nên chẳng sa vào cái Có, Diệu lại càng Diệu nên chẳng lọt vào cái Không. Ngay nơi cái Chẳng phải Có, chẳng phải Không này mà lập làm Niết Bàn chẳng sanh chẳng diệt rồi chẳng còn tiến thêm, đó là quả định tánh Bích Chi.
    Bích Chi có hai hạng : Ra đời có Phật, gọi là Duyên Giác. Ra đời không có Phật, gọi là Độc Giác. Cả hai đều do quán sát nhân duyên mà ngộ Đạo, đến chỗ chẳng còn giao động, tiếp hợp với Viên Giác. Nhưng chỉ một chữ Giác không thể trừ được, mắc vướng nơi một đường Viên Minh, cố chấp chẳng dung hóa nên nói là Chẳng Hồi Tâm. Đó là chỗ thiền gọi là “Ngoài rèm đêm sáng, khó chuyển thân” vậy.

    Nhà sư hỏi thiền sư Kim Phong Chí : “Bốn biển lặng trong thì thế nào ?”
    Tổ Phong nói : “Còn là kẻ dưới thềm”.
    Ngài Đơn Hà tụng rằng :

    “Bốn biển khói trần đã lặng nhiên
    Ngang hiên trăng sáng chiếu người nhàn
    Tướng quân công lớn, không ban thưởng
    Ngựa quý, thương vàng bỗng biếng xem”.


    Có nhà sư hỏi Tổ Tào Sơn : “Trăng sáng trời không thì thế nào ?”
    Tổ Sơn nói : “Còn là kẻ dưới thềm”.
    Thưa rằng : “Xin thầy tiếp lên thềm”.
    Tổ Sơn nói : “Trăng lặn rồi đến tương kiến, chính lúc ấy đồng”.

    Tổ Đầu Tử khai thị chúng rằng : “Nếu luận đến chuyện này, như chim loan, chim phụng bay ngút trời, chẳng hề để vết; dê rừng treo sừng, đâu thấy tăm hơi. Mặt trời chẳng giữ lại nơi đầm lạnh, mặt trăng há trú ở tại vết đen. Hoặc như lập ra Khách, Chủ thì phải ngoài nẻo Oai Âm lắc đầu. Hỏi, đáp, nói bày là việc đề xướng một bên huyền lộ(21). Nếu được như vậy, vẫn còn tại giữa đường. Bèn mới đứng tròng, chẳng phiền tương kiến”.

    Tụng rằng :

    “Trăng đầy, nước lặng, đạo nhân sầu
    Hết diệu, không nương giống chẳng thâu
    Ngoài kiếp : “Chánh, Thiên kiêm đới” nẻo
    Trên cành không nảy (mầm), biện xuân thu”.


    Bằng như ở các công án này có nẻo thấu triệt, bèn có thể làm thầy cho các bậc Duyên Giác, Độc Giác. Bậc Duyên Giác, Độc Giác này vốn là một giống hạng, trước kia phân ra thì chẳng phải.



  4. #574
    NỤ Avatar của Thiện Tâm
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    601
    Thanks
    275
    Thanked 229 Times in 156 Posts


    Kinh
    :

    “Anan, mười loại Thiền Na như vậy, giữa đường hóa điên, do nương mê lầm trong chỗ chưa đủ lại cho đã chứng đủ, đều do Thức Ấm và tâm dụng công xen nhau mà sanh các thứ vị như thế. Chúng sanh mê dại, không biết tự xét, gặp cái đó hiện tiền, mỗi mỗi dùng cái tâm mê lầm còn ưa thích những tập quán cũ mà tự dừng nghỉ, cho đó là chỗ quay về rốt ráo, tự bảo đã đầy đủ Vô Thượng Bồ Đề, thành đại vọng ngữ. Các tà ma ngoại đạo khi nghiệp báo chiêu cảm hết rồi thì sa vào ngục Vô Gián. Hàng Thanh Văn, Duyên Giác thì không thể tiến tới thêm.

    “Các ông để tâm giữ gìn Đạo Như Lai, sau khi Ta diệt độ rồi, đem pháp môn này truyền bày trong đời mạt pháp, khiến khắp chúng sanh hiểu rõ nghĩa này, không để cho những ma tà kiến tự gây ra nạn lớn cho mình. Giữ gìn thương cứu, tiêu dứt các tà duyên, khiến cho thân tâm vào Tri Kiến Phật, từ bắt đầu đến thành tựu, không mắc các lối rẽ.


    Thông rằng :

    Mười loại Thiền Na của Hành Ấm ở trước cho đến năm thứ Niết Bàn hiện ra là cùng tột, đã có cơ duyên tỏ ngộ nhưng còn chưa chứng quả. Ở đây, mười loại Thiền Na của Thức Ấm thì đến Niết Bàn của bậc Bích Chi là cùng tột, đã vào quả vị nên gọi là “Sanh các thứ vị như thế”.

    Tám loại trước là ngoại đạo, trái với hai lý Chân và Trung, khởi lên các tà kiến Trong Tam Giới, hết nghiệp báo thì lại vào luân hồi. Hai loại sau là hàng Nhị Thừa, trái với Trung Đạo Đế, khởi cái tà kiến Ngoài Tam Giới, hồi tâm liền vào Đại Thừa, nên có thể tăng tiến. Hồi về Trí, hướng về Bi, tức là đạo Bồ Tát. Trước bảo rằng Tâm Ma, đây nói rằng Kiến Ma. Tâm thì còn lưu động gồm cả Thức Thứ Sáu. Kiến thì chỉ nắm giữ, gồm cả Thức Thứ Bảy. Tóm lại, không ra ngoài hai tập khí từ vô thủy là Kiến Hoặc và Ái Hoặc. Do nương theo mê hoặc nên chẳng thể rốt ráo. Trong chỗ chưa đủ mà sanh tâm cho là đã chứng đầy đủ. Đã đến chỗ trong lặng chẳng chao động của Thức Thứ Tám, nhưng chưa thể chuyển Thức thành Trí nên gọi là “Mê Lầm Tánh Bồ Đề”, bỏ mất Chánh Tri Kiến. Tri kiến này là Phật Tri Kiến, chẳng phải đắc quả mà mất đi vậy. Mê nơi Thức Ấm, chẳng được sáng suốt, vì bị Thức ngăn che, nên trái xa tánh Viên Thông.

    Thức Thứ Tám là tánh của Như Lai Tạng. Ngộ nó thì chuyển được Thức thành Chánh Quả, mê nó thì bị Thức chuyển mà vào luân hồi. Bởi vậy, có thể “Khai, Thị, Ngộ, Nhập” Tri Kiến Phật thì từ bắt đầu vào cửa là được thành tựu, chẳng bị các Kiến Chấp ngõ rẽ làm mê lầm.

    Tổ Vân Phong Duyệt thượng đường rằng : “Gốc của loài hữu tình là nương Biển Trí làm nguồn. Loài hàm thức đều lấy Pháp Thân làm Thể. Chỉ bởi Tình sanh nên Trí cách; Tưởng biến hóa mà Thể sai thù. Đạt Gốc thì Tình vong, biết Tâm thì Thể hợp. Quý thiền đức hiểu chăng ? Cổ Phật cùng cây lộ trụ tương giao, điện Phật cùng cây đèn lồng cụng trán. Như nếu chẳng hiểu thì : Đơn, Trùng, Giao, Chiết (22)!”

    Nhà sư hỏi Hòa Thượng Ba Tiêu Triệt : “Có một người chẳng xả sanh tử, chẳng chứng Niết Bàn, thì thầy có nắm tay nhau với y không ?”
    Đáp rằng : “Chẳng nắm tay nhau”.
    Hỏi : “Vì sao chẳng nắm tay ?”
    Đáp rằng : “Lão tăng cũng biết chút ít tốt xấu !”
    Ngài Đầu Tử tụng rằng :

    “Trẻ thơ trăm tuổi ra cửa rồi
    Đầy người rần đỏ rước trần ai
    Trong lửa dạo nhàn nơi mát mẻ
    Người biết không sao dám gần nâng”.


    Nếu biết “Người Ấy”, liền nhập Tri Kiến Phật, không mắc vào lối rẽ.



  5. #575
    NỤ Avatar của Thiện Tâm
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    601
    Thanks
    275
    Thanked 229 Times in 156 Posts


    Kinh :

    “Pháp môn như thế, các Đức Như Lai như số vi trần trong hằng sa kiếp quá khứ đều nương cái Tâm mở tỏ này mà đắc đạo Vô Thượng. Khi Thức Ấm hết sạch rồi thì ngay hiện tiền, các Căn của ông đều có thể dùng thay lẫn nhau. Từ chỗ các Căn dùng thay lẫn nhau, bèn vào Kim Cương Càn Huệ Địa Bồ Tát, cái Tâm tinh diệu viên minh ở trong đó phát hóa ra như ngọc lưu ly thanh tịnh bên trong ngậm mặt trăng báu. Như thế mà vượt lên Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Tứ Gia Hạnh Tâm và Thập Địa Kim Cương là chỗ Hành của Bồ Tát, cho đến địa vị Đẳng Giác Viên Minh mà thể nhập vào Biển Diệu Trang Nghiêm Như Lai, viên mãn Bồ Đề, về trong Vô Sở Đắc.

    “Đó là những ma sự vi tế mà các đức Phật Thế Tôn đời quá khứ trước đã giác ngộ, nghiệm rõ và phân tích trong pháp Chỉ Quán. Nếu cảnh ma hiện ra mà ông rõ biết thì sự dơ nhiễm của tâm được rửa trừ, không lạc vào tà kiến, Ấm Ma tiêu diệt, Thiên Ma tan tác, Đại Lực Quỉ Thần hết hồn chạy trốn, Ly Mỵ, Vọng Lượng chẳng còn sanh ra, thẳng đến Bồ Đề, không có những thiếu sót. Hàng hạ liệt cũng được tăng tiến, đối trong Đại Niết Bàn Tâm không mê buồn. Nếu các chúng sanh mê dại trong đời mạt pháp chưa hiểu Thiền Na, chẳng rõ lời thuyết pháp mà ưa tu Tam Muội, ông e rằng họ lạc vào đường tà thì phải một lòng khuyên bảo họ trì chú Phật Đảnh Đà La Ni của Ta. Nếu chưa có thể tụng niệm, hãy viết nơi thiền đường hoặc đeo trong thân thì tất cả các ma không thể động đến. Ông nên kính vâng sự dạy bảo cuối cùng về đường tiến tu rốt ráo của mười phương Như Lai.



  6. #576
    NỤ Avatar của Thiện Tâm
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    601
    Thanks
    275
    Thanked 229 Times in 156 Posts


    Thông rằng :

    Đoạn kinh này đầu đuôi tương ứng với đoạn ở trước, chỗ Ông Anan thành khẩn thưa hỏi các phương tiện ban đầu Xa Ma Tha, Tam Ma Bát Đề, Thiền Na để thành tựu Bồ Đề của mười phương Như Lai. Đó là những ma sự vi tế mà các đức Phật Thế Tôn đời quá khứ trước đã giác ngộ, nghiệm rõ và phân tích trong pháp Chỉ Quán, nên Ma không vào được.

    Nương cái Tâm mở tỏ này mà đắc đạo Vô Thượng. Cần yếu là Thức Ấm hết sạch mà thôi vậy.
    “Đà Na Thức(23) vi tế, tập khí thành dòng xiết, sợ mê Chân, phi Chân; Ta thường chẳng khai diễn”. Bởi thế, nên không biết Thức Ấm thì giữa đường thành ra cuồng mà các Ma lừng lẫy. Hễ ngộ được thì chuyển Thức thành Trí, Bồ Đề hiện tiền. Nếu mỗi mỗi dùng cái tâm mê lầm còn ưa thích những tập quán cũ mà tự dừng nghỉ, chưa đắc mà cho là đắc, chưa chứng mà cho là chứng. Có đắc có chứng đấy thuôïc về Ma. Thức Ấm nếu hết, thì Thần Ngã đều tiêu tan, ngược dòng toàn nhất, các Căn dùng thay nhau. Trong chỗ dùng lẫn nhau thấu vào Kim Cang Càn Huệ Địa, ở trong đó phát khởi cái Chân Trí, như ngọc lưu ly thanh tịnh, trong ngậm mặt trăng báu. Cái mật viên tịnh diệu của tất cả Như Lai đều hiện ra trong đó. Ngay đó liền được Vô Sanh Pháp Nhẫn, bèn vượt lên Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Tứ Gia Hạnh Tâm cho đến Kim Cang Thập Địa là chỗ Hành của hàng Bồ Tát, chứng nơi Đẳng Giác. Đẳng Giác viên minh, thể nhập vào Biển Diệu Trang Nghiêm Như Lai, tức là địa vị Diệu Giác. Ở đoạn trước nói rằng “Có Tam Ma Đề, tên Đại Phật Đảnh, Thủ Lăng Nghiêm Vương sẵn đủ muôn hạnh, mười phương Như Lai nẻo diệu trang nghiêm, nhất môn siêu xuất” là chỗ này vậy.



    Kinh Lăng Nghiêm nói “Viên mãn Bồ Đề, về Vô Sở Đắc”. Kinh Kim Cang nói “Nếu có một Pháp để đắc thì Phật Nhiên Đăng chẳng thọ ký cho Ta”. Thế nên, đắc Vô Sở Đắc, chứng Vô Sở Chứng đó là thấy Tánh. Thấy Tánh tức thành Phật vậy. Do Càn Huệ Địa chứng ngay Bồ Đề, gọi là Siêu. Siêu nên Đốn vậy. Do Càn Huệ Địa mà an lập Thánh vị cho đến chỗ viên mãn Bồ Đề là Đốn mà Viên vậy. Đây là pháp môn Viên Đốn, lập tức chuyển Thức thành Trí. Các ma sự gốc gác ở Thức Ấm, từ đâu mà sanh ra ? Bởi thế, nói rằng “Chẳng bám giữ thì không có cái phi huyễn, cái phi huyễn còn chẳng sanh thì pháp huyễn nương đâu lập ?” Huyễn còn không có, sao có được ma sự ? Nên chi, người phàm phu mà biết điều này thì thẳng đến Bồ Đề, không còn thiếu sót. Hàng Nhị Thừa mà biết chỗ này thì hồi tâm tiến tới, đắc Đại Niết Bàn. Cái pháp Xa Ma Tha, Tam Ma Bát Đề, Thiền Na vi diệu này bởi thế là phương tiện ban đầu, cũng là sự dạy bảo cuối cùng, chỉ có thể bỗng nhiên tự ngộ, chẳng do bởi người mà đắc được, cũng chẳng phải quán hạnh tu chứng tầm thường mà đắc. Đó là cảnh giới không thể nghĩ bàn. Như tu Tam Muội mà trì chú thì tất cả các Ma không có thể động đến. Điều ấy cũng không thể nghĩ bàn, nên ở đây lấy sự trì chú để kết thúc, tương ứng với Đại Phật Đảnh ở trước, vì để bày tỏ cái pháp môn Đệ Nhất cực tôn cực quí vậy.

    Thiền sư Thanh Nguyên Hành Tư hỏi Đức Lục Tổ rằng : “Nên làm gì để không rơi vào thềm bực(24) ?”
    Tổ nói : “Ông từng làm gì ?”
    Hành Tư đáp : “Thánh Đế cũng chẳng làm”.
    Tổ nói : “Rơi vào thềm bực nào ?”
    Hành Tư đáp : “Thánh Đế còn chẳng làm thì có giai cấp nào đâu !”
    Tổ bằng lòng và khiến Ngài cầm đầu trong chúng, rồi dạy đi hóa độ một nơi khác.
    Kệ rằng :

    “Tâm địa chứa các giống
    Mưa khắp ắt mầm sanh
    Đốn ngộ hoa tình ấy
    Bồ Đề, quả tự thành”.


    Ngài Đầu Tử tụng rằng :

    “Vô Kiến Đỉnh lộ, mây vẹt nhanh
    Cành linh ngoài kiếp chẳng hơi xuân
    Chẳng ngồi mé ấy, Không Vương điện
    Đâu chịu cày bừa hướng vầng hồng”.

    Ngài Đơn Hà tụng rằng :

    “Cao trổi khó đem chánh nhãn nhìn
    Siêu việt xưa nay chẳng sánh bằng
    Rêu phong cổ điện không hầu cận
    Trăng phủ cây già, phụng chẳng nương”.


    Có nhà sư hỏi Tổ Thụy Nham : “Thương lượng làm sao để không rơi vào thềm bực ?”
    Tổ Nham nói : “Bày chẳng ra(25) !”
    Hỏi rằng : “Vì sao bày chẳng ra ?”
    Đáp rằng : “Kia xưa nay không giai cấp”.
    Hỏi rằng : “Chưa rõ ở vị thứ nào ?”
    Đáp rằng : “Chẳng ngồi điện Phổ Quang”.
    Hỏi rằng : “Vậy có sửa sang giáo hóa không ?”
    Tổ Nham nói : “Danh nghe đầy ba cõi, chốn nào chẳng chầu về ?”
    Biển Diệu Trang Nghiêm đầy đủ Phước Huệ, vạn hạnh sẵn đủ, thật không thể nghĩ bàn. Thánh Đế còn chẳng đủ nói, huống là tục đế ư ?



  7. #577
    NỤ Avatar của Thiện Tâm
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    601
    Thanks
    275
    Thanked 229 Times in 156 Posts


    VIII. SANH TỬ LÀ VỌNG TƯỞNG NĂM ẤM MÀ CÓ,

    LÝ TUY ĐỐN NGỘ, SỰ PHẢI TIỆM TRỪ.



    Kinh :

    Ông Anan liền từ chỗ ngồi đứng dậy, nghe Phật dạy bảo, đảnh lễ kính vâng, ghi nhớ không sót, ở trong đại chúng lại bạch Phật rằng : “Như lời Phật dạy, trong Tướng Ngũ Ấm có năm thứ hư vọng làm cái tâm tưởng cội gốc. Chúng tôi bình thường chưa được nhờ Đức Như Lai khai thị tỉ mỉ. Lại năm Ấm ấy là tiêu trừ một lượt hay theo thứ lớp mà hết ? Năm lớp như vậy đến đâu là giới hạn ? Xin nguyện Đức Như Lai phát rộng đại từ làm cho con mắt Tâm của đại chúng này được trong sáng để làm đạo nhãn tương lai cho tất cả chúng sanh trong đời mạt pháp”.

    Phật bảo Ông Anan : “Tánh Tinh Chân thì Diệu Minh, tánh Bản Giác là Viên Tịnh, chẳng có vết tích của sanh tử và các trần cấu, cho đến hư không cũng đều nhân vọng tưởng mà có ra. Tất cả cái ấy nguyên là Bản Giác diệu minh chân tinh vọng phát sanh ra các khí thế gian, như chàng Diễn Nhã Đa mê cái đầu mà nhận bóng trong gương. Vọng vốn không có nhân, mà ở trong vọng tưởng lập ra tánh Nhân Duyên. Mê lầm Nhân Duyên thì gọi đó là Tự Nhiên. Cái tánh của hư không kia còn thật là huyễn hóa sanh ra huống là Nhân Duyên hay Tự Nhiên đều là sự so tính của vọng tâm chúng sanh.

    “Anan, biết là hư vọng khởi ra mà nói nhân duyên hư vọng. Như hư vọng gốc vốn không có thì cái nhân duyên hư vọng đó không chỗ có, huống gì là không biết mà suy rằng Tự Nhiên.



    Thông rằng :

    Chỗ hỏi của Ông Anan : “Tiêu trừ một lượt hay theo thứ lớp mà hết ?”, là chọn lựa dứt khoát hai pháp môn Đốn, Tiệm để làm con mắt Đạo cho hàng trời, người tương lai. Đức Thế Tôn trước hết dùng một đường tối thượng, nương Ngộ mà tiêu trừ hết một lượt để khai thị cho. Độc chỉ tại ngộ, Thể nhập Tánh Tinh Chân diệu minh của Bản Giác viên tịnh. Cái Thấy này chẳng dung chứa vọng nghiệp sanh tử và các vọng duyên trần cấu nào. Cho đến cả hư không chẳng phải Nghiệp, chẳng phải Duyên. Thể Tánh ấy như biển lớn chẳng chứa thây ma, tức là các tướng hư không, tử sanh, trần cấu cũng không có chỗ nào mà dính bám. Thấy rõ được tánh Diệu Minh vốn tự tinh chân như thế thì còn có vọng gì ? Tánh Bản Giác hằng nhiên tự toàn vẹn trong sạch, có dơ nhiễm nào đâu ?

    Cho nên sự trôi lăn sanh tử của thế gian đều thuộc nơi Thọ, Tưởng và Hành Ấm, trần cấu vẩn đục thuộc Sắc Ấm. Nương hư không mà khởi lập thuộc nơi Thức Ấm. Tất cả đều do Vọng Tưởng sanh khởi. Đã là Bản Giác diệu minh chân tinh thì nhân đâu mà khởi vọng để phát sanh các khí thế gian, Kiến Phần, Tướng Phần v.v... ? Vọng vốn không có nhân, như ở trước đã nói “Chàng Diễn Nhã Đa mê cái đầu mà nhận bóng”. Ai ai cũng biết là Vọng, thì cái Vọng ấy từ đâu mà khởi ra ?

    Cho là nhân duyên thì chẳng phải là nhân duyên, cho là tự nhiên thì chẳng phải là tự nhiên. Chẳng phải nhân duyên, chẳng phải tự nhiên thì không phải là tánh hư không ư ? Cũng chẳng phải là tánh hư không vậy. Tánh hư không kia như một bọt nước phát ra trong biển. Trong tánh Đại Giác mà xem thì rõ ràng là Huyễn, huống gì các thứ sanh tử trần cấu nương nơi hư không mà khởi lập, há chẳng phải là Huyễn ở trong Huyễn ư ? Thế nên, nói tánh nhân duyên, nói tánh tự nhiên đều là sự so tính của Vọng Tâm, vốn nào thật có. Đã chẳng phải Nhân Duyên, Tự Nhiên thì cái Vọng của năm Ấm nguyên không có Tự Tánh. Đã không có Tự Tánh thì vốn chẳng sanh. Vọng vốn chẳng sanh, chốn nào tìm Vọng ? Cho nên biết chỗ khởi của Vọng mới có thể nói Nhân Duyên của Vọng. Cái Vọng này làm sao mà sanh, rồi phải làm sao mà dứt ?

    Nghĩ thế mới có chuyện năm Ấm tiêu diệt theo thứ lớp. Bằng như Vọng vốn không có thì từ đâu mà gọi là Nhân Duyên, lại từ đâu mà suy tính là Tự Nhiên ? Như mắt không có bệnh nhặm, độc chỉ thấy một mặt trăng. Vốn làm gì có mặt trăng thứ hai, thì chốn nào lại tìm mặt trăng thứ hai để luận nhân duyên với tự nhiên ?

    Cái chỗ nương Ngộ mà tiêu hết một lượt đây là pháp môn Viên Đốn Tối Thượng. Bởi thế mà chẳng luận làm sao tiêu trừ mà chẳng chưa từng không tiêu trừ hết một lượt ! Chỉ việc ngộ nhập Bổn Giác tinh chân diệu minh viên tịnh thì chẳng còn chuyện gì khác.

    Có nhà sư hỏi Tổ Trường Sa Cảnh Sầm rằng : “Con người bổn lai thành Phật phải chăng ?”
    Tổ Sa nói : “Ông nói Thiên Tử nước Đại Đường trở lại cắt cỏ, cắt tranh sao ?”

    Ngài Đầu Tử tụng rằng :

    “Trùng trùng khí tía thẳm điện rêu
    Sao phân ngôi vị trị Càn Khôn
    Kim Luân(26) chẳng ngự Diêm Phù cảnh
    Há với chư hầu bảo ấn tôn”.


    Lại có nhà sư hỏi thiền sư Cửu Phụng Mãn : “Ai ai cũng nói “Xin dạy nghĩa”, chưa rõ Thầy có cứu giúp không ?”

    Tổ Mãn nói : “Ông nói núi lớn kia lại thiếu tấc đất nào ư ?”
    Hỏi : “Bốn biển tìm cầu là vì chuyện gì thế ?”
    Tổ Mãn nói : “Diễn Nhã mê đầu, tâm tự cuồng”.
    Hỏi rằng : “Lại có người (hoặc : Cái) chẳng điên không ?”
    Tổ Mãn nói : “Có”.
    Hỏi rằng : “Thế nào là người chẳng điên ?”
    Tổ Mãn nói : “Hốt nhiên hiểu giữa đường, mắt chẳng mở”.
    Đây là trong Giác Minh mà làm ra lỗi, rồi lìa dứt Vọng Căn. Thế nên, chàng Diễn Nhã mê cuồng, đâu có từ đâu mà khởi. Chẳng phải là người thật thấy Bản Lai Diện Mục, dễ gì thấu rõ chỗ này.



  8. #578
    NỤ Avatar của Thiện Tâm
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    601
    Thanks
    275
    Thanked 229 Times in 156 Posts


    Kinh :

    “Thế nên Như Lai phát minh cho các ông rằng bản nhân của năm Ấm đồng là Vọng Tưởng. Thân thể của ông trước hết nhân cái Tưởng của cha mẹ mà sanh. Tâm của ông nếu chẳng phải là Tưởng thì đâu có đến trong Tưởng mà gá mạng. Như Ta đã nói ở trước, Tâm tưởng đến vị chua thì trong miệng chảy nước bọt. Tâm tưởng việc lên cao, trong lòng bàn chân thấy ghê ghê. Dốc cao không có, vật chua chưa tới, thân thể của ông nếu chẳng cùng loài hư vọng thì cớ sao nghe nói tới chua thì nước miếng chảy ra ?
    “Thế nên, phải biết Sắc Thân hiện giờ của ông chính là Vọng Tưởng kiên cố Thứ Nhất.




    Thông rằng :

    Tưởng sanh ra ở đâu ? Sanh ở nơi Thức vậy. Chỗ Thức vừa bắt đầu động, đó là nguồn gốc cái Tưởng. Thức là Mệnh Căn, nương Tưởng mà truyền. Thức động ắt Tưởng sanh, Tưởng sanh thì Mạng lập, Mạng lập thì bốn Đại đầy đủ, đó là chỗ nói “Ba thứ Mệnh, Tưởng, Thức hòa hợp mà thành người” vậy. Bởi thế, cái Tưởng của mình hợp với Tưởng của cha mẹ thì phước đức tốt xấu tùy theo chỗ nguyện mà cái Sắc Thân kiên cố ở đó hiện ra vậy. Trước khi chưa sanh thì chỉ có Tưởng. Trước khi chưa có Tưởng thì chỉ có Thức. Cái Thức Thần chẳng chết gọi là Mệnh Căn. Mệnh Căn muốn sự kiên cố trường cửu, nên đã hiện ra Sắc Thân thì chỉ sợ tiêu mất. Đây là chứng cớ rõ ràng của Vọng Tưởng kiên cố.

    Nếu cho rằng nương cái khí Âm Dương trời đất mà thật có thân này, chứ chẳng phải hư vọng mà lập ra, thì nghe nói đến me hẳn không sanh nước miếng, nghe nói đến bờ vực không cảm thấy ghê ghê, không theo vọng mà trôi lăn được. Đàng này trong miệng thì nước miếng chảy ra, dưới chân thấy rợn rợn; chưa hẳn là cảnh thật, chỉ nhân Tưởng mà sanh ra thì quả thân này rõ ràng thuộc cùng loại Vọng Tưởng, nên cùng với Vọng Hoặc tương ứng. Thế thì còn lạ gì thân này chẳng do cái Tưởng của cha mẹ mà sanh ra ư ? Chỉ có Tưởng theo với Tưởng, như tưởng me sanh ra thì có nước miếng, tưởng vực thì ghê chân. Cái Sắc Thân hiện có đây rõ ràng là một Vọng Tưởng kiên cố. Thế nên nói đến Sắc Ấm thì gốc là Vọng Tưởng kiên cố. Nếu biết rõ cái Tưởng này chẳng phải nhân duyên sanh, chẳng phải tự nhiên sanh, toàn là hư vọng, ngay đó là tịch diệt, vốn tự không có Sắc, thì có cái gì đan dệt mà làm ra Kiếp Trược ư ? Bởi thế mà hóa Không cái Kiếp Trược vậy.

    Huệ Trung Quốc Sư thượng đường rằng : “Cây thanh la bám nương lên trên đỉnh cây tòng khô. Mây trắng lững lờ tụ tán trong Thái Hư. Muôn pháp vốn nhàn mà người tự náo !”

    Tổ Vân Môn thượng đường : “Này quí Thượng Tọa, chớ có vọng tưởng ! Trời là trời, đất là đất, núi là núi, nước là nước, tăng là tăng, tục là tục !”

    Im lặng giây lát, rồi nói : “Cùng ta đem đặt vững ngọn núi lại đây !”

    Có nhà sư bèn hỏi : “Kẻ học nhơn thấy núi là núi, nước là nước thì thế nào ?”
    Tổ Môn nói : “Ba cửa để làm gì mà lại cỡi Phật điện từ trong ấy đi qua ?”
    Hỏi rằng : “Như vậy thì đừng có vọng tưởng vậy”.
    Tổ Môn nói : “Trả lại thoại đầu của ta đây !”
    Phàm kẻ học nhơn rõ biết muôn pháp vốn nhàn, Sắc Ấm chẳng có, biết rõ Vọng Tưởng là hư vọng, ăn nhằm gì đến ta thì có gì mà chẳng “Không” cái Sắc Ấm. Chỉ vì chưa rõ thoại đầu của Vân Môn. Tham đi !



  9. #579
    NỤ Avatar của Thiện Tâm
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    601
    Thanks
    275
    Thanked 229 Times in 156 Posts


    Kinh :

    “Ngay nơi cái tâm tưởng tượng lên cao vừa nói đó mà có thể khiến thân ông thật thọ sự ghê rợn. Do các Thọ sanh ra mà có thể giao động Sắc Thân.
    “Vậy hiện nay hai thứ Thuận Ích và Trái Tổn đang giong ruổi nơi ông chính là Vọng Tưởng hư minh Thứ Hai.



    Thông rằng :

    Tưởng ở tâm mà Thân thấy ghê rợn, thì ắt là có Thọ rồi sau mới làm giao động Sắc Thân. Có Tưởng tức có Thọ, có Thọ tức có Hiện Hành. Bởi thế, Thọ vui là Thuận, là Ích. Thọ khổ là Trái, là Tổn. Bởi thế, hai thứ hiện hành đắp đổi, giong ruổi chẳng ngừng. Cái gì là Thọ ? Hễ Hư thì Thọ, hễ Minh thì Lãnh Nạp. Cái Hư Minh Vọng Tưởng này thuộc năm Thức trước, tức là Kiến Phần. Kiến Phần và Tướng Phần lẫn lộn nên gọi là Kiến Trược. Nếu biết cái Thọ này chẳng phải nhân duyên sanh, chẳng phải tự nhiên sanh nên là hư vọng; tuy hư minh nhưng vốn không có Tự Thể. Đã không có Tự Thể thì vốn tự chẳng sanh. Đã vốn chẳng sanh thì cái gì là Thọ, cái gì là Kiến Phần ? Thế nên, có thể phá tan Kiến Trược vậy.

    Tổ Triệu Châu thượng đường rằng : “Bồ Đề Niết Bàn, Chân Như Phật Tánh đều là y phục dính nơi thân, cũng gọi là phiền não. Chỗ Thật Tế Lý Địa có gì mà bám níu ? Một tâm chẳng sanh, vạn pháp không lỗi. Ông chỉ tham cứu cho suốt, ngồi xét xem hai, ba mươi năm, nếu chẳng hội cứ chặt đầu lão tăng đi. Mộng huyễn, Không hoa uổng công nắm bắt ! Tâm mà chẳng khác, vạn pháp nhất như. Đã không từ ngoài mà được thì còn nắm giữ làm gì ? Tương tự như con dê, tóm lung tung thứ bỏ vào miệng. Lão tăng nghe Hòa Thượng Dược Sơn nói : “Có người hỏi đó, chỉ bảo : “Ngậm mõm chó lại !” Lão tăng cũng dạy : “Ngậm mõm chó lại !” Giữ lấy cái Ta là dơ, chẳng giữ cái Ta là sạch. Thật như con chó săn chuyên muốn có được vật gì để ăn. Phật Pháp ở tại chốn nào ? Ngàn người, vạn người đều là những tên tìm Phật, trong đó tìm một đạo nhân cũng không có. Nếu cùng Không Vương làm đệ tử, chớ bảo tâm bệnh nan y !”

    Lại có nhà sư hỏi Tổ Động Sơn : “Mỗi mỗi siêng chùi lau(27)”, vì sao chẳng được y bát ?”
    Tổ Sơn nói : “Dù cho nói “Xưa nay không một vật” cũng chẳng được y bát kia !”
    Hỏi rằng : “Chưa rõ người nào thì được ?”
    Tổ Sơn nói : “Kẻ chẳng nhập môn”.
    Hỏi rằng : “Chỉ như kẻ chẳng nhập môn lại có đắc không ?”
    Tổ Sơn nói : “Tuy vậy, chẳng được thì chẳng trao kia”.
    Lại nói tiếp : “Dù cho nói “Bổn lại vô nhất vật” vẫn còn chẳng được y bát. Hãy nói người như sao thì hợp được ? Trong ấy hợp được, hạ một chuyển ngữ, hãy nói hạ được lời gì ?”
    Một vị Thượng Tọa hạ chín mươi sáu chuyển ngữ mà chẳng khế hợp, sau cùng nói : “Giả sử có đem lại đi nữa, kia cũng chẳng lãnh thọ”.

    Tổ Sơn rất chịu.

    Ngài Tuyết Đậu nói : “Kia đã không nhận là có mắt, đem đến thì ắt hẳn là mù”.

    Ngài Thiên Đồng nêu ra rằng : “Trường Lư(28) thì không thế ! Cần nên đem lại, nếu chẳng đem lại, làm sao biết chẳng thọ ? Cần nên chẳng thọ, nếu chẳng có chẳng thọ làm sao khỏi đem lại ? Đem lại hẳn nhiên là mắt, chẳng thọ đích thật là mù. Có hiểu chăng ?

    “Chiếu khắp, thể không nương
    Thông thân hợp Đại Đạo”.


    Đây là từ hai chỗ thua rớt của Tỳ Kheo Trường Trảo(29) mà giáo hóa hàng vị lai. Cần phải ngay cái “Chẳng thọ” cũng chẳng thọ nhận, mới có thể siêu khỏi Kiến Trược.



  10. #580
    NỤ Avatar của Thiện Tâm
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    601
    Thanks
    275
    Thanked 229 Times in 156 Posts


    Kinh :

    “Do những niệm lự sai khiến Sắc Thân của ông, nếu Sắc Thân chẳng phải cùng loại với Niệm thì cớ sao thân ông lại theo Niệm mà bị sai sử, mỗi mỗi nhận lấy hình tượng, tâm khởi nắm giữ hình tượng tương ứng với Niệm ? Thức là tưởng Tâm, ngủ làm chiêm bao.
    “Vậy Vọng Tình, Tưởng Niệm giao động của ông chính là Vọng Tưởng dung thông Thứ Ba.



    Thông rằng :

    Niệm lự thì vô hình, thân thể có hình chất. Niệm động thì thân theo, do đâu lại bị sai sử ? Do cái Tưởng dung thông vậy. Tâm sanh cái Tưởng hư vọng mà thân giữ nhận vật thật, mỗi mỗi thù đáp, tương ứng với Niệm. Do cái Tưởng dung thông nên khiến tâm theo cảnh, khiến cảnh tùng tâm. Cái Vọng Tình giao động, thức ngủ không gián đoạn, đó thuôïc về gốc rễ Vọng Tưởng, sức có thể dung thông không ngăn ngại. Ấy là tác dụng của Thức Thứ Sáu, là sào huyệt của phiền não.

    Nếu rõ cái Tưởng này chẳng phải nhân duyên sanh, chẳng phải tự nhiên sanh, đương thể hư vọng, tức đương thể không tịch. Tưởng vốn không sanh thì phiền não nào có ra gì nữa ?
    Xưa, Ngài Ngưỡng Sơn đang chánh định trong tăng đường, nửa đêm không thấy núi sông, đất đai, chùa chiền, người vật cho đến mất luôn thân, toàn vẹn đồng như hư không.

    Sáng hôm sau Ngài kể lại với Tổ Quy Sơn.

    Tổ Quy Sơn nói : “Tôi hồi ở với Tổ Bách Trượng cũng được như vậy, đó là công dụng tiêu minh cái Vọng Tưởng dung thông. Ông về sau thuyết pháp, có người vượt hơn thì không đâu có chuyện đó”.

    Ngài Thiên Đồng nêu kinh Viên Giác : “Ở tất cả mọi thời, chẳng khởi vọng niệm chăng ? Ở nơi vọng tâm cũng chẳng dứt diệt chăng ? Trụ cảnh viên thông chẳng thêm sự hiểu biết chăng ? Ở chỗ không hiểu biết chẳng phải biện chân thực chăng ?” (Ở đây Tổ thêm các chữ “chăng” để thành câu hỏi).
    Tụng rằng :

    “Đường đường nguy nga, lỗi lỗi lạc lạc
    Chỗ náo cắm đầu, chỗ ổn hạ chân
    Dưới chân dây đứt, tự do thay !
    Đầu mũi hết bùn, ông khỏi cạo !
    Đừng động đậy,
    Giấy cũ ngàn năm đúng là thuốc !”.


    Tổ Lang Nha Giác có lần hỏi một vị tăng giảng kinh : “Thế nào là ở tất cả mọi thời chẳng khởi vọng niệm ?”
    Đáp rằng : “Khởi tức là bệnh”.
    Lại hỏi : “Thế nào là ở nơi vọng tâm cũng chẳng dứt diệt ?”
    Đáp rằng : “Dứt tức là bệnh”.
    Lại hỏi : “Thế nào là trụ cảnh vọng tưởng chẳng thêm sự hiểu biết ?”
    Đáp rằng : “Biết tức là bệnh”.
    Lại hỏi : “Thế nào là ở chỗ không hiểu biết chẳng phân biện chân thực ?”
    Đáp rằng : “Phân biện tức là bệnh”.
    Tổ Giác cười mà rằng : “Ông biết thuốc đấy, nhưng chưa biết cái kỵ trong thuốc vậy”.
    Ngài Bửu Giác làm bài kệ :

    “Hoa vàng ắp ắp, trúc xanh ràng ràng
    Giang Nam đất ấm, ải Bắc xuân hàn
    Khách du đi rồi không tin tức
    Còn lại Vân Sơn ngắm đến già !”.


    Các vị tôn túc ở đây có thể nói là “Dưới chân dây đứt”, tung hoành tự do, đủ để làm quy tắc phá Tưởng Ấm.



Thông tin chủ đề

Users Browsing this Thread

Hiện có 1 người đọc bài này. (0 thành viên và 1 khách)

Quyền viết bài

  • Bạn không thể gửi chủ đề mới
  • Bạn không thể gửi trả lời
  • Bạn không thể gửi file đính kèm
  • Bạn không thể sửa bài viết của mình
  •