DIỄN ĐÀN PHẬT PHÁP THỰC HÀNH - Powered by vBulletin




Cùng nhau tu học Phật pháp - Hành trình Chân lý !            Hướng chúng sinh đi, hướng chúng sinh đi, để làm Phật sự không đối đãi.


Tánh Chúng sinh cùng Phật Quốc chỉ một,
Tướng Bồ Đề hóa Liên hoa muôn vạn.

Trang 48/58 ĐầuĐầu ... 384647484950 ... CuốiCuối
Hiện kết quả từ 471 tới 480 của 588
  1. #1
    NỤ Avatar của Thiện Tâm
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    601
    Thanks
    275
    Thanked 229 Times in 156 Posts


    VI. TỨ GIA HẠNH

    Kinh :

    “Anan, người thiện nam đó tu hết bốn mươi mốt tâm thanh tịnh ấy rồi, tiếp đến thành tựu bốn thứ Gia Hạnh Diệu Viên : tức lấy Phật Giác dùng làm tâm mình, như ra mà chưa ra, cũng như dùi cây cho ra lửa để đốt cái cây, gọi là Nỗn Địa.

    Thông rằng :

    Bốn mươi mốt tâm ở trên, từ Càn Huệ đến Mười Hồi Hướng lần hồi sửa trị, lần hồi điều phục, đào thải phàm tình, đã thành cùng cực thanh tịnh. Nhưng Thánh vị khó lên, Thánh quả khó chín muồi. Đến miếng đất này, Thần không thể xét đến, “Hóa chẳng thể giúp tăng trưởng. An nhiên mà thong dong, chờ cái tự nó đến mà thôi vậy. Đức Thế Tôn nhiều kiếp tu hành, suốt thấu rõ ràng chỗ huyền vi, ở đây lại lập ra bốn thứ Gia Hạnh Diệu Viên. Giữa khoảng sắp thành tựu và chưa thành tựu, quả thực là có bốn địa vị này, chẳng phải là Phật nhãn thì ai mà biện biệt ra được ? Ở trước, nói “Giác bằng cái Giác của Phật”, ấy là ở trong tâm rõ ràng mà chưa thể dùng được. Đến đây thì “Lấy Phật Giác dùng làm tâm mình”, đưa lên xem ngắm mà chẳng ra, giống như dùi cây cho ra lửa mà cây chưa cháy, nên gọi là Nỗn(35) Địa. Lửa có ra thì cũng vô tâm, dùi lâu thì cây tự cháy. Giác mà dùng thì cũng vô ý, Định lâu thì Huệ tự hiện, trong khoảng ấy chẳng để cho sức người góp vào vậy. Tổ Thúy Nham Chân thượng đường, nêu lên bài tụng của Tổ Long Nha rằng : “Học đạo như dùi lửa, thấy khói chưa thể ngừng, chờ đến Kim Tinh hiện, về nhà mới đến nơi !” Và bài tụng của Tổ Thần Đỉnh rằng : “Học Đạo như dùi lửa, thấy khói có thể dừng, chớ chờ Kim Tinh hiện, cháy cẳng lại cháy đầu !” Tổ Chân nói : “Nếu luận Đốn thì Long Nha quả ở nửa đường ! Nếu luận Tiệm thì Thần Đỉnh mới ngộ ít. Ở đây thì thế nào ? Này các nhân giả, năm nay nhiều lá rụng, chỗ nào quét về nhà ?” Theo chỗ thấy của Ngài Thúy Nham, cháy chẳng hết thì hiện củi, dùng chẳng hết thì hiện lửa, thế dùng sự dùi làm chi ? Tuy thế, phải là người xuất cách mới xong !



  2. #2
    NỤ Avatar của Thiện Tâm
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    601
    Thanks
    275
    Thanked 229 Times in 156 Posts


    Kinh :

    “Tâm, Phật cả hai đồng, khéo được Trung Đạo, giống như người biết nhẫn nhịn, chẳng phải ôm ấp, chẳng phải phát ra, gọi là Nhẫn Địa.

    Thông rằng :

    Tâm mình và hành vi Phật, cả hai dấu vết đều dung thông, hòa thành một thể, không còn ngăn ngại. Đã không phải Tức Tâm tức Phật, cũng không phải Phi Tâm phi Phật, chỉ nói là “Chẳng phải vật”, đó chỗ gọi là Trung Đạo. Ban đầu thì ngay chính giữa mà lần vào, cho đến khi Trung Đạo thuần chân. Thứ lớp Tín, Trụ, Hạnh, Hướng đến đây mới có thể khéo được Trung Đạo. Gọi là Khéo được thì chẳng phí mảy lông công lực, ấy là đắc cái Không-chỗ-đắc. Đã không chỗ đắc thì cũng không chỗ thuyết. Như người nhẫn nhịn, đã không ôm ấp lòng nghi mà cũng không nói ra, chỉ có im lặng ẩn chứa mà thôi, nên gọi là Nhẫn Địa. Quan Long Đồ tên là Vương Tiêu, tự là Quan Phục, một hôm ở chùa Chiêu Giác, nghe tiếng bản ra thiền mà có tỉnh ngộ. Bèn hỏi Tổ Nam Đường : “Tôi có cái chỗ-thấy, bỗng bị người hỏi, lại mở miệng chẳng được, chưa rõ lỗi ở đâu ?” Tổ Đường nói : “Lỗi tại có cái chỗ-thấy”.
    Tổ hỏi lại : “Ông đến nhậm chức hồi nào ?”
    Ông đáp : “Dạ ngày mồng Bốn tháng Tám năm ngoái”.
    Tổ lại hỏi : “Ông rời nhiệm sở khi nào ?”
    Đáp rằng : “Ngày Hai Mươi tháng trước”.
    Tổ Đường nói : “Vậy tại sao nói là mở miệng chẳng được ?”
    Ông Tiêu bèn khế ngộ. Ông Vương Long Đồ tương tự chứng Nhẫn Địa, nhờ vài câu của Tổ Nam Đường mà chỗ-thấy liền mất. Nhưng cũng có trường hợp đã siêu quá Nhẫn Địa mà chưa thấu thoát. Như Ngài Ngũ Tổ Diễn được Ngài Phù Sơn Viễn chỉ đến ra mắt Tổ Bạch Vân Đoan. Ngài Ngũ Tổ Diễn đem chuyện nhà sư hỏi Tổ Nam Tuyền về ngọc ma-ni để xin bày dạy yếu nghĩa. Tổ Đoan liền quát nạt cho. Ngài Diễn lãnh ngộ, trình bài kệ Đầu Cơ rằng :

    “Trước non một mảnh đất đai nhàn
    Hầu Tổ chấp tay bạch hỏi han
    Tự bán bao phen rồi mua lại
    Vì thương tùng trúc giỡn gió trong”.


    Tổ Đoan đặc biệt ấn khả, cho làm tri sự trong chùa. Chẳng bao lâu, Tổ Đoan đến nói rằng : “Có mấy vị thiền khách ở Lư Sơn tới, đều có chỗ ngộ nhập. Bảo y nói, cũng nói được có mối manh. Nêu nhân duyên hỏi y, cũng bày tỏ được. Bảo y hạ một câu chuyển ngữ, cũng buông ra được. Chỉ có điều là chưa ở trong đó”. Ngài Diễn ở chỗ này phát đại nghi, tự suy nghĩ rằng : “Đã ngộ rồi thì cũng nói được, rõ cũng đã rõ, thế sao lại chưa ở trong đó ?” Bèn tham cứu lâu ngày, bỗng nhiên tỉnh ngộ, lòng tiếc của báu trước kia một phen buông bỏ hết, chạy đi tìm Ngài Bạch Vân Đoan. Tổ Đoan dậm chân múa tay. Ngài Diễn cũng cười xòa một tiếng mà thôi. Tổ Diễn về sau nói với người ta rằng : “Tôi nhờ đó mà ra khỏi một xác chết, liền rõ được cái việc chở gió trong”. Thế nên biết, mảy tơ chưa hóa thì vẫn còn Lý Chướng. Bốn thứ Gia Hạnh diệu viên như thế, đâu chỉ có bốn mối ư ?



  3. The Following User Says Thank You to Thiện Tâm For This Useful Post:

    honglien (01-04-2016)

  4. #3
    NỤ Avatar của Thiện Tâm
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    601
    Thanks
    275
    Thanked 229 Times in 156 Posts


    VII. THẬP ĐỊA

    Kinh :

    “Anan, người thiện nam đó trong Đại Bồ Đề, khéo được thấu suốt. Giác thông với Như Lai, suốt hết cảnh giới Phật, gọi là Hoan Hỉ Địa.

    Thông rằng :

    Nói Đại Bồ Đề đó chính là “Một đường hướng thượng”, chỗ quan yếu của mệnh mạch Chư Phật. Nơi đây mà thấu suốt, đắc đại triệt ngộ, “Thấy các tướng chẳng phải tướng, bèn thấy Như Lai”. Đã thấy Như Lai, nên suốt hết cảnh giới Phật. Cảnh giới Phật thì chỉ Phật cùng với Phật mới có thể thông suốt cùng tột, đó là cảnh giới không thể nghĩ bàn. Lấy ba Đế(38) viên dung để tương ưng cũng chưa cùng tột. Trung Đạo thuần chân dường như không khác Bồ Đề, nhưng biết cái Trung Đạo chẳng an trụ, đó là Đại Bồ Đề vậy. Địa vị Hoan Hỉ Hạnh ở trước đầy đủ vô lượng diệu đức, mười phương đều tùy thuận, lấy chỗ công đức mà nói, nên thuộc về Hạnh. Ở đây bèn thấu suốt Vô Thượng Bồ Đề, vượt phàm vào Thánh, đã rảo bước trong cảnh Phật, đã lên quả vị nên gọi là Địa. Bắt đầu được sự hoan hỉ của Pháp, hỉ là do thấu suốt, đắc không có gì chướng ngại, mà thật là đắc không chỗ đắc, hỉ không chỗ hỉ, chẳng phải là cái hoan hỉ của thế tình có thể suy lường nổi.
    Quan Thiêm Phán Lưu Kinh Thần, nhỏ tuổi nhờ có tài mà ra làm quan, đối với Phật Pháp chưa có tin. Nhờ gặp thiền sư Chiếu Giác Tổng chỉ dẫn nên say mê Tổ Đạo. Khi đến kinh sư, ra mắt thiền sư Huệ Lâm Xung, gặp lúc vị tăng hỏi Tổ Tuyết Đậu : “Như sao là bổn nguyên Chư Phật ?” Đáp rằng : “Sắc lạnh ngàn núi”. Lời dứt, có tỉnh ngộ. Hơn năm trời chờ bổ nhậm, ông tham học với Ngài Thiều Sơn Cảo. Khi sắp đi nhậm chức, từ giã Ngài, Ngài căn dặn rằng : “Ông cứ thế mà dụng tâm, lo gì chẳng ngộ. Về sau hoặc có cái cảnh giới phi thường, hoan hỉ vô lượng thì thu thập cho mau. Nếu thu thập được liền thành pháp khí. Nếu thu thập chẳng được, liền có bệnh chẳng an mà thành cái lỗi lầm thất tâm đó”. Chẳng bao lâu ông lại đến kinh sư, theo thiền sư Chánh Giác Dật mà thưa hỏi nhân duyên.
    Tổ Dật nói : “Người xưa nói “Bình thường tâm là Đạo”. Nay ông trong mười hai thời phóng quang động địa, chẳng tự biết lấy, lại hướng ngoài chạy rông tìm kiếm, ngày càng lạ càng xa !”
    Ông càng thêm nghi, chẳng hiểu. Một đêm vào thất, Tổ Dật đem chỗ trong Truyền Đăng Lục : “Quốc Vương Hương Chí hỏi Tổ Ba La Đề Tôn Giả : “Cái gì là Phật ?” Tổ Đề nói : “Tánh Thấy là Phật”, ra mà hỏi ông. Ông không nói năng được, càng nghi dữ. Bèn về chỗ ngủ, ngủ say. Đến canh năm, tỉnh giấc, vừa chợt nhớ lại thì thấy đủ thứ tướng lạ, trong ngoài thông suốt, sáu căn chấn động, trời đất cùng quay, như mây mở trăng hiện, vui không gì hơn. Bỗng nhớ lại lời dặn dò của Tổ Thiền Sơn khi từ biệt mà nén lại, đợi đến sáng mới thuật lại chỗ biết được.
    Ông nói : “Chẳng cần thực hành ư ?” Tổ Dật nói : “Cái ấy là việc gì mà lại nói đến thực hành ?” Ông lặng im khế hợp. Về sau, có viết Phát Minh Tâm Địa Tụng tám bài, và thiên Minh Đạo Dụ Nho để cảnh tỉnh thế gian. Như chỗ chứng của Ông Lưu, đối với Sơ Địa chưa biết ra sao, nhưng cái hoan hỉ phi thường là đã chẳng cô phụ sự thọ ký của Ngài Thiều Sơn. Cũng là việc hiện thân Tể Quan mà đến đó ư ?



  5. #4
    NỤ Avatar của Thiện Tâm
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    601
    Thanks
    275
    Thanked 229 Times in 156 Posts


    Kinh :

    “Tánh Khác nhập vào Đồng, tánh Đồng cũng diệt, gọi là Ly Cấu Địa.

    Thông rằng :

    Ở trước thì Tâm, Phật hai cái đều Đồng, số lượng tiêu diệt là chỉ quy về một cái Tánh Thiện của ta mà luận. Nay thì tánh Khác nhập vào Đồng là nêu bày chúng sanh, quốc độ đồng một Tánh đây. Rắn, rồng lẫn lộn, phàm Thánh xen nhau, đó là cảnh giới của Bồ Tát. Nếu chẳng giác thông suốt ý chỉ chẳng dơ chẳng sạch của Như Lai thì chưa dễ thấu đạt chỗ này. Nếu thấy Tánh chúng sanh là khác, tức thấy chúng sanh dơ. Nay đã nhập vào Đồng là đã lìa cái dơ của bờ mé dơ vậy. Nếu thấy chúng sanh tánh Đồng thì tánh Đồng chưa mất, ấy là pháp dơ. Nay tánh Đồng cũng diệt mất, tức là lìa cái dơ của bờ mé sạch vậy. Cái Ly Cấu Địa này là chỗ tôn trọng trong địa vị Bồ Tát : dứt lìa cái dơ của bờ mé thanh tịnh, trở về Bản Thể vốn không dơ của Như Lai, chứ chẳng phải lấy sự lìa cái dơ của bờ mé dơ mà có thể bàn đến. Nhà sư hỏi Tổ Thụy Nham : “Như sao là Phật ?” Đáp : “Trâu đá”.
    Hỏi : “Như sao là Pháp ?”
    Đáp : “Trâu đá con”.
    Hỏi : “Như vậy tức chẳng đồng ư ?”
    Đáp : “Hợp chẳng được”.
    Hỏi : “Vì sao hợp chẳng được ?”
    Đáp : “Không có cái Đồng để đồng với thì hợp cái gì ?”
    Lại có nhà sư hỏi Tổ Tào Sơn : “Tuyết phủ ngàn núi, vì sao đỉnh cô chót ấy chẳng trắng ?”
    Tổ Sơn nói : “Phải biết có cái khác trong cái khác”.
    Hỏi : “Như sao là khác trong khác ?”
    Tổ Sơn nói : “Chẳng sa vào màu sắc các núi”. Tổ Thụy Nham khéo nói cái Đồng, Tổ Tào Sơn khéo nói cái Khác. Hợp hai tắc trên mà xem, ắt biết tánh Khác nhập vào Đồng thì không có cái Đồng nào để đồng. Lìa dơ thì thành khác, hóa ra là Khác ở trong Khác. Ở đây há có thể lấy sự nông cạn mà nhìn vào được ư ?



  6. #5
    NỤ Avatar của Thiện Tâm
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    601
    Thanks
    275
    Thanked 229 Times in 156 Posts


    Kinh :

    “Thanh tịnh cùng tột, sáng suốt sanh ra, gọi là Phát Quang Địa.

    Thông rằng :

    Như tấm gương tròn lớn bụi bặm không còn, đã gọi được là thanh tịnh, nhưng chẳng phải thanh tịnh cùng tột vì còn Pháp Cấu(39). Pháp Cấu đã lìa, cái Sở Tri Chướng sạch, rồi sau cái sáng suốt của Bổn Giác sanh ra, từ Định phát Huệ, tự có một phần ánh sáng rực rỡ, chẳng phải sự Giác Chiếu tầm thường có thể so sánh. Bài kệ ở trước đã nói : “Tịnh cực, sáng thông suốt. Lặng chiếu trùm hư không”, cảnh giới như thế thì mỗi mỗi đều tự sáng tỏ, vật vật đều tự suốt thông, há chỗ ấy còn có sự lờ mờ ư ? Tổ Động Sơn hỏi Ông Mật Sư Bá : “Làm gì thế?”
    Đáp : “Cầm kim”.
    Tổ Sơn nói : “Việc cầm kim ra làm sao ?”
    Đáp : “Mỗi kim đều như nhau”.
    Tổ Sơn nói : “Hai mươi năm đồng hành, lại nói lời thế ư ?”
    Ông Mật hỏi : “Còn trưởng lão thì thế nào ?”
    Tổ Sơn nói : “Đại địa lửa phát !”
    Ngài Thiên Đồng nêu rằng : “Đại địa lửa phát
    Trong chẳng dung sợi tóc
    Nam Hải, Côn Lôn
    Trời lạnh chẳng mang vớ
    Tổ Tổ truyền nhau
    Một thứ dơ uế !”. Đó là chỉ ra cái Chân Ngộ đã phát, liền cùng Phật, Tổ tâm tâm ấn nhau. Cái Phát Quang Địa này chẳng thể dễ dãi đàm luận.
    Hòa Thượng Ẩn Sơn có bài kệ : “Ba gian nhà lá xưa nay ở
    Một đạo thần quang, vạn cảnh nhàn
    Chớ đem phải quấy ra xét tới
    Phù sinh xuyên tạc, há tương quan ?”. Chỗ Ngài nói chẳng phải là “Thanh tịnh cùng tột, sáng suốt sanh ra” đó ư ?



  7. #6
    NỤ Avatar của Thiện Tâm
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    601
    Thanks
    275
    Thanked 229 Times in 156 Posts


    Kinh :

    “Sáng suốt cùng tột, Giác đầy khắp, gọi là Diệm Huệ Địa.

    Thông rằng :

    Sáng suốt đã cùng tột, Giác đã đầy khắp, giống như đống lửa lớn, đụng vào là cháy thiêu, cả thảy bóng duyên (duyên ảnh) đều thiêu tuyệt. Không chỉ nói là Huệ mà nói Diệm Huệ(40) là Huệ đến tột mức vậy. Cái ấy chẳng thể gần, tức là Bát Nhã Trí. Như con trùng rất nhỏ nhặt, chỗ nào cũng đậu vào, nhưng không thể đậu trên ngọn lửa cháy sáng. Cái thức lự(41) chốn chốn đều duyên ra, nhưng không thể duyên ra trên Trí Bát Nhã, nên gọi là Diệm Huệ Địa. Tổ Bàn Sơn thượng đường : “Cái tâm-nguyệt một mình tròn vẹn kia, ánh sáng nuốt muôn tượng. Ánh sáng chẳng phải chiếu cảnh, cảnh cũng chẳng còn. Ánh sáng và cảnh đều mất, đó là vật chi ?” Tổ Động Sơn riêng nói rằng : “Ánh sáng và cảnh chưa mất, đó là vật gì ?” Tổ Bửu Phước đem ra hỏi Ngài Trường Khánh : “Theo hai vị thì rốt cuộc chưa tuyệt hết, vậy làm sao tuyệt hết đây ?” Ngài Trường Khánh lặng im giây lâu. Tổ Phước nói : “Rõ ràng ông hướng vào trong hang quỷ mà sanh nhai !” Ngài Khánh hỏi : “Ông lại làm sao ?” Tổ Phước nói : “Hai tay đỡ con trâu nước cao quá đầu gối !” Ngài Thiên Đồng nêu ra rằng : “Đều mất, chưa mất, đoạt người, đoạt cảnh. Vì sao Tổ Bảo Phước không chịu Ngài Trường Khánh ? Thái bình vốn do tướng quân đem lại, chẳng để tướng quân thấy thái bình”. Theo chỗ thấy của Tổ Bửu Phước thì Diệm Huệ Địa cũng không cho yên níu, huyền lại càng huyền vậy.



  8. #7
    NỤ Avatar của Thiện Tâm
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    601
    Thanks
    275
    Thanked 229 Times in 156 Posts


    Kinh :

    “Tánh Chân Như vô vi thanh tịnh bày lộ rõ ràng, gọi là Hiện Tiền Địa.

    Thông rằng :

    Đồng, Khác chẳng đến được, không thể tạo tác. Đã không tạo tác, đó là Chân Như. Tánh Chân Như này, nơi mê chẳng giảm bớt, nơi ngộ chẳng tăng thêm. Chỉ vì Tình Kiến ô nhiễm mà chẳng bày lộ rỡ ràng. Duy chỉ thanh tịnh cùng tột, sáng suốt cùng tột liền “tròn vo vo, sáng rỡ rỡ, trong leo lẻo” không thể cầm nắm. Cái thể tịch diệt liền được hiện tiền, nên gọi là Hiện Tiền Địa.

    Ngài Đại An sắp qua đất Hồng Châu, trên đường qua khỏi huyện Thượng Nguyên thì gặp một ông già bảo rằng : “Ông sang Nam Xương sẽ có chỗ đắc”.

    Ngài An bèn đến Tổ Bá Trượng, làm lễ mà hỏi : “Kẻ học nhơn muốn cầu biết Phật, cái ấy là gì ?”

    Tổ Trượng nói : “Thật như cỡi trâu lại tìm trâu!”

    Ngài An ngay nơi lời nói có tỉnh ngộ, hỏi rằng : “Biết được rồi thì như thế nào ?”

    Tổ Trượng nói : “Cũng giống cỡi trâu về nhà”.

    Ngài An nói : “Chưa rõ trước sau giữ gìn thế nào?”

    Tổ Trượng rằng : “Như người chăn trâu cầm roi trông coi, khiến chẳng động đến lúa mạ của người”.

    Ngài Đại An từ đó lãnh nhận ý chỉ, chẳng còn tìm kiếm, sau kế pháp trụ trì ngọn Quy Sơn. Ngài thượng đường, nói :

    “Hết thảy các ông đều tìm đến An này, để tìm kiếm cái gì thế ? Như muốn làm Phật, chính ông tự là Phật. Vác Phật chạy qua nhà người, khác nào con nai khát nước đuổi theo bóng nắng, bao giờ mới được tương ưng đây ? Ông muốn làm Phật, chỉ việc không có những thứ điên đảo, bám níu, vọng tưởng, ác giác, dơ sạch là cái tâm chúng sanh, thì đó bèn là Sơ Tâm Phật Chánh Giác. Còn hướng đi đâu nữa mà toan tính ? Bởi thế mà An này ở Quy Sơn ba mươi năm, ăn gạo Quy Sơn, đi phân Quy Sơn mà chẳng học thiền Quy Sơn. Chỉ trông coi một con trâu đực, nếu lạc đường vào cỏ liền nắm mũi kéo lui, vừa phạm đến lúa mạ người liền roi vọt ngay, đã lâu điều phục. Khá thương kiếp sanh ra chịu lời lẽ của người, như nay hóa thành con trâu trắng bày lộ rỡ ràng, thường ngay trước mặt, suốt ngày bày hiện sờ sờ ra đó, đuổi chẳng chịu đi.
    “Này các ông, mỗi người đều hiện đang tự có vật báu vô giá, từ cửa mắt phóng ánh sáng soi suốt đất đai, sông núi. Nơi cửa tai phóng ánh sáng, gồm góp hết thảy tiếng vang lành dữ. Sáu cửa như thế, ngày đêm thường phóng ra ánh sáng rực rỡ, cũng gọi là Phóng Quang Tam Muội.
    “Ông chẳng tự biết giữ lấy, nó hiện ẩn trong thân tứ đại, giúp giữ trong ngoài, khiến chẳng nghiêng ngã. Ví như người mang nặng qua cầu độc mộc, nó khiến khỏi trợt chân. Hãy nói đó là vật gì kham giữ mà được như thế ? Lại không có mảy tơ để có thể thấy ! Há chẳng nghe Hòa Thượng Chí Công nói : “Trong ngoài tìm kiếm rốt lại không. Trên cảnh rộn ràng toàn thực có”. Trân trọng !”

    Có nhà sư đến hỏi Ngài Đại Ninh Khoan : “Như sao là trâu trắng sờ sờ ?
    Ngài Khoan lấy đũa gắp lửa khươi trong lò, nói : “Hiểu ư ?”
    Nhà sư nói : “Dạ, chẳng hiểu”.
    Ngài nói : “Đầu chẳng thiếu, đuôi chẳng dư”.
    Hai vị tôn túc trên nói việc tánh thanh tịnh bày lộ rõ ràng một cách vui khoái, đáng cùng nhau lên Hiện Tiền Địa vậy.



  9. #8
    NỤ Avatar của Thiện Tâm
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    601
    Thanks
    275
    Thanked 229 Times in 156 Posts


    Kinh :

    “Lại lấy tâm mình thành chỗ hành vi của Phật. Hình như nương mà chẳng phải nương, như lên núi cao, thân đã vào hư không mà bên dưới còn chút ngăn ngại, gọi là Đảnh Địa.

    Thông rằng :

    Chỗ thấy cùng Phật không khác, nhưng còn phải quý trọng hành vi cho tương xứng. Nếu đã có thể lấy cái Giác của Phật dùng làm tâm mình thì có thể lấy tâm mình thành chỗ hành vi của Phật. Ở nơi hỗ tương đối đãi mà nói thì vì còn có cái thấy của Phật, của mình nên hình nhưng nương mà chẳng phải nương, là thấy có quy tắc của Phật. Hình như nương nơi Phật thì đó chỉ là quy tắc của mình. Nếu không có chỗ nương, đó là hành vi của Phật không vết tích. Nay có chút so nghĩ, tính toán, bởi vì lằn vết chưa mất. Giống như lên núi cao, thân đã vào hư không mà bên dưới còn chút ngăn ngại. Cho là Nương thì thân ở hư không nên chẳng phải nương vậy. Cho là Chẳng phải nương thì chân còn dẫm trên đảnh nên chẳng phải là Không nương. Sắp vào chỗ Thần Hóa mà còn chút đầu lông chưa tiêu dung, nên hình như có ngăn ngại. Kinh Đại Bát Nhã cho sự chấp trước hư không là Pháp Thân gọi là Đỉnh Đọa, rơi nơi đỉnh, chính thật tương đương với chỗ này. Nhà sư hỏi Tổ Triệu Châu : “Như sao là cô đỉnh Diệu Phong ?”
    Tổ Châu nói : “Lão tăng không đáp câu ấy của ông”.
    Hỏi : “Vì sao không đáp câu ấy ?”
    Tổ Châu nói : “Ta đáp cho ông, sợ rơi trên đất bằng”.
    Ý vị thay ! Rõ ràng đã đáp rồi vậy.
    Về sau, hai Ngài Bửu Phước và Trường Khánh đang dạo núi.
    Ngài Bửu Phước lấy tay chỉ, nói : “Chỉ trong ấy bèn là đỉnh Diệu Phong !”
    Ngài Trường Khánh nói : “Đúng là như vậy thì đáng tiếc cho !”
    Có nhà sư kể lại với Ngài Cảnh Thanh. Ngài Cảnh Thanh nói : “Nếu chẳng phải là bậc Tôn Công thì thấy sọ khô đầy đồng !”
    Ngài Tuyết Đậu tụng rằng : “Diệu Phong cô đảnh cỏ dẫy đầy
    Nêu được rõ ràng, phó chúc ai ?
    Chẳng phải tôn công phân đích xác
    Sọ khô đầy đất, mấy ai hay !”. Tôn Công Trường Khánh khá tiếc cho chính là sợ rớt trên đất bằng. Nếu rớt nơi đất bằng mà thương lượng thì trước sọ khô thấy quỷ ma vô số ! Lại như Tổ Động Sơn hỏi nhà sư : “Chỗ nào đến?”
    Đáp : “Dạo núi đến”.
    Tổ Sơn nói : “Có đến đỉnh chăng ?”
    Đáp : “Dạ có đến”.
    Tổ Sơn nói : “Trên đỉnh có người không ?”
    Đáp : “Không người nào”.
    Tổ Sơn : “Như vậy chắc chưa tới đỉnh”.
    Đáp : “Nếu chưa tới đỉnh sao biết là không người?”
    Tổ Sơn : “Sao chẳng ở (trụ) lại ?”
    Đáp : “Tôi chẳng từ chối ở, chỉ vì Tây Thiên có người chẳng chịu”.
    Tổ Sơn nói : “Vậy mà lâu nay ta lại nghi gã ấy !” Như nhà sư này, đến đỉnh chẳng trụ thì còn gì ngăn ngại ? Tức là cái hoạn nạn Đỉnh Đọa còn không có, lo gì tai họa Đất Bằng ư ?



  10. #9
    NỤ Avatar của Thiện Tâm
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    601
    Thanks
    275
    Thanked 229 Times in 156 Posts


    Kinh :

    “Số lượng tiêu diệt, sự Mê, Giác và Trung Đạo cả hai đều không danh mục, ấy là Thế Đệ Nhất Địa.

    Thông rằng :

    Tâm, Phật cả hai đồng, là đã quên đây, kia; khéo đắc Trung Đạo là đã lìa hai bên. Nhưng có hai cái đồng nhau, thế là còn tin tức trong đó. Đó là số lượng, đó là danh mục vậy. Số lượng là chỗ thế nhân có thể đo lường, danh mục là chỗ thế nhân có thể chỉ ra, tức là chẳng vượt khỏi thế gian. Phật Thân là vô vi, chẳng rơi vào số lượng. Tiêu diệt số lượng đo đếm đi thì chẳng có việc rơi vào vậy. Sao gọi là tiêu diệt ? Cái gì có Đồng, có Khác, có Mê, có Giác, có Được, có Mất đều thuộc vào số lượng, đều có thể xếp thành danh mục. Hiện nay độc chỉ khéo đắc Trung Đạo, nên không thể cho đó là Mê, lại sắp cùng với chỗ sở đắc mà quên mất, nên không thể cho đó là Giác. Chẳng thể suy đoán, chẳng thể hình dung, chính là chỗ chân thực tiêu diệt mọi số lượng vậy.

    Cái chỗ tình suy lượng của thế nhân có thể đến, là biết có Phật, biết có Đạo mà thôi. Nay nói : “Tâm chẳng phải Phật, Trí chẳng phải Đạo”, thì chỗ nào đâu mà suy nghĩ dung thân ? Cái chỗ mà danh mục của thế nhân có thể thấy đến là đồng như vậy, đắc như vậy mà thôi. Nay nói, “Đồng không chỗ đồng, đắc không chỗ đắc”, thì chỗ nào đâu để trộm thấy cái nhiệm mầu ?”
    Đến đây thì Nội Phàm đã hết, sắp vào Thánh vị. Chỉ có Thánh mới biết được Thánh, chẳng phải ý kiến người đời mà trộm thấy được, vì cao vượt cái cao của người đời, nên gọi là Thế Đế Đệ Nhất Địa. Nếu vào Thập Địa, đến tột Diệu Giác thì lại gọi là Xuất Thế Đệ Nhất Địa. Có nhà sư hỏi Tổ Động Sơn : “Trong ba Thân, Thân nào chẳng sa vào số lượng ?”
    Tổ Sơn nói : “Ta thường ở trong ấy không cách hở”. Ngài Thiên Đồng tụng rằng : “Chẳng nhập thế, chưa theo duyên
    Kiếp bầu “Không Xứ” có gia truyền
    Sông thu gió nhẹ, rau tần trắng
    Bến cổ thuyền chiều một giải sương”. Bài tụng này ở chỗ chẳng rơi vào số lượng lại càng thân thiết. Thiền sư Đồng An Chí kế thừa Tổ Đồng An Phi. Khi sắp thị diệt, Tổ Phi thượng đường nói : “Trước Đa Tử tháp(36) toàn con cháu tuấn tú, việc của năm vị trưởng lão tiền bối là thế nào ?”
    Nói ba lần, không ai đối đáp được. Cuối cùng Ngài Đồng An Chí bước ra, nói : “Đêm sáng ngoài rèm bày trải vững, muôn dặm vui ca đạo thái bình”. Tổ Phi nói : “Phải là cái tên lừa ấy mới được”.
    Sau, khi trụ trì, có nhà sư hỏi Ngài : “Chỗ hai cơ chẳng đến, cử xướng thế nào ?”
    Tổ Chí nói : “Khắp nơi chẳng gặp, trong Huyền chẳng mất”.
    Ngài Đơn Hà tụng rằng :

    “Mé kia bờ nọ khó tương phùng
    Vô tư hai chữ cũng không trong
    Vầng hồng Tây lặn ngoài kia núi
    Luống lưu cô ảnh chiếu khe đông”.


    Chỗ này thì Mê-Giác và Trung Đạo, cả hai đều không chỗ chỉ gọi, chính là chỗ hai cơ duyên chẳng đến nơi. Nhưng Ngài Đồng An Chí thì hai bên chẳng lập, Trung Đạo chẳng dừng, sắp Trung Đạo cũng chẳng ở. Thế mới là Chân Tông Vô Trước(37), trong tông môn là cao tột thứ nhất. Đâu phải chỉ là Thế Đệ Nhất Địa mà thôi sao ?



  11. #10
    NỤ Avatar của Thiện Tâm
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    601
    Thanks
    275
    Thanked 229 Times in 156 Posts


    Kinh :

    “Hết thảy có Đồng, có Khác không thể đến được, gọi là Nan Thắng Địa.

    Thông rằng :

    Trí của bậc chưa vào Địa gọi là Khác, Trí của bậc Đăng Địa gọi là Đồng, tức như trong chỗ vốn Đồng lại có Đồng, Khác. Lìa dơ (Ly Cấu) là thanh tịnh, mà thanh tịnh cùng tột thì sáng suốt sanh ra. Phát ra ánh sáng (Phát Quang) là sáng suốt, mà sáng suốt cùng cực thì Giác đầy khắp. Chưa đến hết mười phần thì còn có Đồng và Khác để nói; đã đến hết mười phần thì không còn Đồng, Khác để chỉ ra. Như vàng đã có màu như cũ thì đâu còn thêm bớt, theo đâu mà chỉ ra đó là Đồng, nương đâu mà chỉ ra đó là Khác ? Đã không có cái Khác để chỉ, tức phàm tình không thể đến. Đã không có cái Đồng để chỉ, tức Thánh giải không thể đến. Phàm tình có thể đến, ắt cái phàm được hơn thắng. Thánh giải có thể đến, ắt cái Thánh được hơn thắng. Nay thì hết thảy Đồng, Khác, Thánh, Phàm, Trí, Lự đều chẳng thể đến. Cái đến đã không có thì cái gì vượt thắng đây ? Nên gọi là Nan Thắng Địa. Đức Phật nói : “Nếu như có một pháp hơn cả Niết Bàn, ta cũng nói là như mộng huyễn”. Niết Bàn như thế là Pháp Tối Nan Thắng vậy. Tổ Lâm Tế đến Ngài Phụng Lâm.

    Ngài hỏi : “Có chuyện nhờ nhau, hỏi được chăng?”
    Tổ Tế nói : “Sao lại khoét thịt làm vết thương ?”
    Ngài Lâm nói : “Biển trăng ngần không ảnh. Cá (lội) chơi riêng tự mê !”
    Tổ Tế nói : “Biển trăng đã không ảnh, cá (lội) chơi sao lại mê ?”
    Ngài Lâm nói : “Xem gió nhìn sóng dậy. Ngắm trăng mặc buồm trôi”.
    Tổ Tế nói : “Cô luân(42) độc chiếu non sông lặng. Hú dài một tiếng đất trời sầu”.
    Ngài Lâm nói : “Cứ đem “Ba Tấc” sáng trời đất. Một câu gặp chuyện (lâm cơ) nói ra xem”.
    Tổ Tế nói : “Đường gặp kiếm khách nên trình kiếm. Chẳng phải nhà thơ chẳng tặng thơ”.
    Ngài Lâm bèn thôi.

    Tổ Tế bèn tụng rằng :

    “Đại đạo bặt đồng
    Tùy ý Tây Đông
    Lửa đá chẳng kịp
    Điện quang không thông”.


    Tổ Quy Sơn hỏi Ngài Ngưỡng Sơn :

    “Lửa đá chẳng kịp, điện quang không thông thì từ xưa Chư Thánh lấy gì mà vì người ?”

    Ngài Ngưỡng nói : “Ý Hòa Thượng thế nào ?”
    Tổ Quy rằng : “Chỉ có lời nói, toàn không thực nghĩa”.
    Ngài Ngưỡng nói : “Chẳng phải vậy”.
    Tổ Quy nói : “Vậy ông thế nào ?”
    Ngài Ngưỡng nói : “Quan chẳng cầm kim, riêng thông xe ngựa”.

    Đại để, Lâm Tế cùng Phụng Lâm tương kiến, tuy là điển quang, lửa đá không thể thí dụ cho nổi, mà Ngưỡng Sơn lại cho là riêng thông xe, ngựa.

    Chính đó là chỗ nói là “Ngộ thì Ca Diếp chẳng che giấu, chẳng ngộ thì Như Lai có mật ngữ” vậy. Cái chỗ “Hết thảy Đồng, Khác không thể đến được” này nếu chẳng phải khế ngộ chân thực thì ai rõ được chỗ Nan Thắng của nó ư ?



Thông tin chủ đề

Users Browsing this Thread

Hiện có 1 người đọc bài này. (0 thành viên và 1 khách)

Quyền viết bài

  • Bạn không thể gửi chủ đề mới
  • Bạn không thể gửi trả lời
  • Bạn không thể gửi file đính kèm
  • Bạn không thể sửa bài viết của mình
  •