DIỄN ĐÀN PHẬT PHÁP THỰC HÀNH - Powered by vBulletin




Cùng nhau tu học Phật pháp - Hành trình Chân lý !            Hướng chúng sinh đi, hướng chúng sinh đi, để làm Phật sự không đối đãi.


Tánh Chúng sinh cùng Phật Quốc chỉ một,
Tướng Bồ Đề hóa Liên hoa muôn vạn.

Trang 34/58 ĐầuĐầu ... 24323334353644 ... CuốiCuối
Hiện kết quả từ 331 tới 340 của 588
  1. #1
    NỤ Avatar của Thiện Tâm
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    601
    Thanks
    275
    Thanked 229 Times in 156 Posts


    Kinh:

    “Thế nào là Trợ Nhân?

    “Anan, mười hai loài chúng sanh đó trong thế giới không thể tự toàn, phải nương theo bốn cách ăn mà sống, đó là Đoạn Thực, Xúc Thực, Tư Thực, Thức Thực. Vậy nên Phật bảo tất cả chúng sanh đều nương cái ăn mà sống còn.

    “Anan, tất cả chúng sanh ăn thức lành thì sống, ăn thức độc thì chết. Vậy những chúng sanh cầu Tam Ma Đề phải dứt bỏ năm thứ rau cay trong thế gian. Năm thứ rau cay này, ăn chín phát lòng dâm, ăn sống thêm lòng giận. Trong thế gian, những người ăn rau cay đó dầu có thể tuyên thuyết mười hai bộ kinh, thì Tiên Thiên mười phương không thích hôi nhớp đều lánh xa cả. Các loài quỷ đói v.v... nhân lúc người ấy đang ăn bèn liếm môi mép. Thường ở với quỷ, nên phước đức ngày càng tiêu mòn, lâu dài không được lợi ích. Người ăn rau cay ấy, tu Tam Ma Địa, Bồ Tát, Thiên Tiên, Thiện Thần mười phương không đến thủ hộ. Đại Lực Quỷ Vương thừa cơ hội đó hiện làm thân Phật đến thuyết pháp cho, chê phá Cấm Giới, khen Dâm, Nộ, Si. Khi chết tự làm quyến thuộc Ma Vương, hưởng phước Ma hết, đọa vào ngục Vô Gián. Anan, người tu Đạo Bồ Đề vĩnh viễn dứt bỏ năm thứ rau cay.

    “Đó là tiệm thứ tu hành tăng tiến thứ nhất.

    Thông rằng:

    Đoạn Thực cũng gọi là Đoàn Thực, nghĩa là lấy tay viên tròn lại mà ăn (người Ấn độ). Nhưng có thứ không thể vê tròn nên đổi thành đoạn. Đoạn là cắt ra từng khúc, như dao cắt. Các thức ăn cơm, bún, rau... ăn theo lối cắt. Đó là cách ăn của con người.

    Xúc Thực là ăn theo lối Căn, Cảnh, Thức tiếp xúc nhau mà thành. Chỉ tiếp xúc cái khí vị mà thôi, đó là cách ăn của Quỷ Thần.

    Tư Thực là cõi Thiền Thiên không có Đoạn Thực, chỉ có ăn bằng tư tưởng, nên nói “Nghĩ đến ăn thì được ăn”.

    Thức Thực là cõi Vô Biên Xứ, không ăn bằng tư tưởng mà chỉ có cái Thức biết ăn, Thức thủ (hiểu lấy) mùi vị Pháp đầy đủ nên no.

    Các lối ăn Xúc, Tư, Thức Thực cũng đều có thể nuôi sống như đoạn thực, nên nói “Đều nương theo cái ăn mà sống còn”. Bộ Hiệp Luận nói: “Thức thực là A Lại Da Thức nương theo ba cách ăn trước mà tồn tại. Làm sao để biết ? Năm Thức trước là Tướng Phần Tự Chứng của A Lại Da. Thức Thứ Sáu và Thức Thứ Bảy là Kiến Phần Tự Chứng của A Lại Da. Phạm vi của năm Thức trước nương vào Đoạn Thực. Thức Thứ Sáu phân biệt nương vào Xúc Thực. Thức Thứ Bảy nương vào Tư Thực. Cho nên Thức Thực nương vào ba loại ăn trước mà tồn tại”.

    Tất cả chúng sanh ăn thức ăn lành thì sống, ăn thức ăn độc thì chết, thì há năm loại rau cay nhớp mà không trợ Dâm, sanh Giận ư ? Rốt cục Trời, Tiên xa lánh, thường ở với Quỷ, cũng chẳng khác gì ăn thức ăn độc. Nhưng Dâm, Giận ngày càng tăng, hẳn là chê phá Cấm Giới, đọa vào ngục Vô Gián. Như vậy há có thể không cẩn thận ngay ở chỗ vi tế ư?

    Hòa Thượng Kim Ngưu mỗi lần đến giờ ăn, tự đem thùng cơm đến trước tăng đường, múa cười ha hả mà rằng: “Bồ Tát ơi, đến ăn cơm!”

    Ngài Tuyết Đậu nói: “Tuy nhiên như thế, Kim Ngưu chẳng phải hảo tâm!”

    Nhà sư hỏi Tổ Trường Khánh: “Cổ nhân nói “Bồ Tát ơi, đến ăn cơm”, ý chỉ như thế nào?”

    Tổ Khánh nói: “Cũng giống nhân bữa ăn mà ca mừng”.

    Ngài Tuyết Đậu tụng rằng:

    “Trong bóng mây trắng cười ha hả

    Hai tay bưng đến trao người ta

    Nếu quả Kim Mao Sư Tử nhỏ

    Ngoài ba ngàn dặm thấy sai ngoa”.


    Lại có vị tăng hỏi Tổ Triệu Châu: “Kẻ học nhơn mới vào tùng lâm, xin thầy chỉ bày cho”.

    Tổ Châu nói: “Vậy ăn cháo rồi chưa?”

    Vị tăng: “Dạ, ăn rồi”.

    Tổ Châu nói: “Thì rửa chén bát đi!”

    Vị tăng tỉnh ngộ.

    Tổ Vân Môn nói: “Hãy nói là có chỉ bày hay không chỉ bày? Nếu nói có thì Triệu Châu nói cái gì với ông ta vậy? Nếu nói không thì vì sao vị tăng kia lại ngộ?”

    Ngài Thiên Đồng tụng rằng:

    “Cháo xong thì dạy rửa bát đi

    Rỗng rang tâm địa tự dung thông

    Như nay, khách tham thiền no đủ

    Thử hỏi khoảng này có ngộ không?”.





  2. The Following User Says Thank You to Thiện Tâm For This Useful Post:

    dieunghiem (11-04-2015)

  3. #2
    NỤ Avatar của Thiện Tâm
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    601
    Thanks
    275
    Thanked 229 Times in 156 Posts


    II. KHAI THỊ HAI CÁI NHÂN ĐIÊN ĐẢO


    Kinh:

    Phật nói: “Anan, hãy biết, cái Diệu Tánh tròn sáng lìa mọi danh tướng, bổn lai không có thế giới, chúng sanh. Nhân vọng mà có sanh, nhân sanh mà có diệt. Sanh diệt thì gọi là vọng, diệt vọng thì gọi là Chân. Đó gọi là hai danh hiệu chuyển y Bồ Đề Vô Thượng và Đại Niết Bàn của Như Lai vậy.

    Thông rằng:

    Tánh mà nói là Diệu thì chẳng trệ nơi Tịch. Minh mà nói là Viên thì chẳng sa vào cái Sở, mà lìa tướng, lìa danh, không thể nghĩ bàn. Chứng vào Diệu Tánh này thì thế giới chẳng phải là thế giới, chúng sanh chẳng phải là chúng sanh, tức vọng thành Chân, cái sanh diệt chẳng phải là sanh diệt vậy.

    Tổ Mã Minh nói: “Vì chẳng như thật biết Chân Như Nhất Pháp nên tâm bất giác động mà thành có ra niệm. Niệm tức là tướng sanh, sanh tức là tướng diệt. Sanh diệt, danh Tướng đều là vọng. Bằng như thật mà rõ biết Chân Như Nhất Pháp ắt Vọng vốn không chỗ có. Giống như người theo phương hướng mà mê lầm, sự mê lầm nào có tự tướng! Cho Đông là Tây mà phương hướng thật nào có xoay chuyển gì đâu. Tỉnh ngộ ra thì cái phương Tây mê lầm kia đâu có! Mê thì cho là tâm động mà thật nào chẳng có động. Như biết cái tâm động ấy là chẳng sanh diệt, liền vào thẳng cửa Chân Như”.

    Rốt ráo thay lời nói này! Đây có thể làm lời dạy chân chánh cho cái “Diệt Vọng thì gọi là Chân” vậy. Thế nên, chuyển cái bất giác y vào Tánh Giác gọi là Bồ Đề Vô Thượng; chuyển cái sanh tử y vào Vô Sanh gọi là Niết Bàn, chứ chẳng phải lìa cái bất giác mà còn có riêng cái Giác, chẳng phải lìa sanh tử mà có riêng cái Vô Sanh. Chỉ là cái vọng kiến diệt đi tức Chân Tánh hiện. Cái bất giác này liền ngay là Chân Giác; cái sanh diệt này liền thật là Vô Sanh. Tức là cái thế giới chúng sanh này đây vốn không có chi là chúng sanh, thế giới. Thế nên mới gọi là Vô Thượng, đó là Đại!

    Chuyển Y thì có sáu thứ: Một là, Tổn lực ích năng chuyển, nghĩa là tổn giảm thế lực của chủng tử ô nhiễm và tăng thêm công năng của chủng tử thanh tịnh, lần lần chế phục sự hiện hành, cũng gọi là Chuyển Y.

    Hai là, Thông đạt chuyển, nghĩa là do thấy Đạo, đạt Chân, rồi nỗ lực đoạn trừ hai cái Chướng (Phiền Não và Sở Tri), chứng sơ lược một phần Chân Thật Chuyển Y.

    Ba là, Tu tập chuyển, nghĩa là hàng Thập Địa từng Địa đoạn dần câu sanh Vô Minh, chứng “Chân Chuyển Y”.

    Bốn là, Quả mãn chuyển, nghĩa là ở địa vị cứu cánh dùng Kim Cương Định vĩnh viễn đoạn trừ tất cả Vô Minh thô, tế, đốn chứng Chuyển Y Phật Quả Viên Mãn.

    Năm là, Hạ liệt chuyển, nghĩa là hàng Nhị Thừa chán khổ ưa tịch lặng, ở chỗ chứng Chân Trạch Diệt, không có khả năng kham nhẫn thù thắng.

    Sáu là, Quảng đại chuyển, nghĩa là địa vị Đại Thừa, không có cả ưa lẫn chán, thông đạt ngã pháp đều Không, song đoạn hai Chướng, đốn chứng Vô Thượng Bồ Đề, bởi có khả năng kham nhẫn thù thắng.

    Bồ Đề Vô Thượng và Đại Niết Bàn này Quảng Đại Chuyển Y Thứ Sáu cùng với Quả Mãn Chuyển Y Thứ Tư đều là Đốn Chứng. So với hàng Nhị Thừa hạ liệt lần lượt tu tập hoàn toàn khác hẳn.

    Thiền Sư An Dân, ban đầu giảng kinh Lăng Nghiêm ở thành đô, được hàng nghĩa-học nương về. Thời ấy, Tổ Viên Ngộ ở chùa Chiếu Giác. An Dân có bạn lành là Thắng thiền sư nên đến đó. Nghe được Tổ Viên Ngộ vào lúc tiểu tham nêu ra nhân duyên ba lần kêu thị giả, thì Triệu Châu có đề ra câu nói “Như người viết chữ trong tối, chữ tuy chẳng thành mà văn vẻ đã rỡ ràng”. Trong chỗ nào là văn vẻ đã rỡ ràng?”

    Sư An Dân tâm nghi chuyện ấy, đốt hương xin vào thất của Tổ.

    Tổ Viên Ngộ hỏi: “Tòa chủ giảng kinh gì?”

    Đáp rằng: “Lăng Nghiêm”.

    Tổ Ngộ nói: “Kinh Lăng Nghiêm có bảy chỗ trưng bày Tâm, tám nơi trả về để biện rõ Tánh Thấy, vậy rốt ráo Tâm ở chỗ nào?”

    Sư An Dân trình bày giải thích lắm thứ, Tổ đều chẳng chịu, mới bảo hãy ở nơi “Tất cả chốn là văn vẻ đã rỡ ràng” mà thể hội.

    Tình cờ có nhà sư hỏi Tổ về Thập Huyền Đàm [Mười bài kệ của thiền sư Đường An Sát], vừa mới nêu ra câu “Tâm ấn của thầy, dáng vẻ thế nào...”, thì Tổ Viên Ngộ nói lớn: “Văn vẻ đã rỡ ràng!”

    Sư Dân nghe liền có chỗ tỉnh ngộ, bèn xin ấn chứng.

    Tổ dạy: “Lấy bổn sắc mà trui rèn thì vô ích”.

    Một hôm, sư thưa với Tổ: “Xin Hòa Thượng thôi nêu lời, để tôi nói xem sao”.

    Tổ chấp thuận.

    Sư Dân nói: “Bình thường dơ chùy, dựng phất há chẳng phải là chỗ trong kinh nói “Hết thảy hình tướng có trong thế gian đều tức là Bồ Đề Diệu Minh Chân Tâm” ư?”

    Tổ Viên Ngộ cười, nói: “Ông xưa nay ở trong đó mà sinh nhai đấy!”

    Sư Dân lại nói: “La hét, gõ sàng há chẳng phải là “Phản văn văn tự tánh, tánh thành Vô Thượng Đạo” ư?”

    Tổ nói: “Ông há chẳng thấy trong kinh nói: “Diệu Tánh sáng đầy, lìa các danh tướng” ư?”

    Sư Dân ngay nơi lời nói được tiêu tan vướng mắc.

    Tổ Viên Ngộ ra khỏi đất Thục, đến ở Giáp Sơn. Sư thôi giảng kinh, theo hầu bên Tổ. Tổ ban đêm giảng thiền cho chúng, nêu ra công án “Buồm xưa chưa căng”. Sư chẳng khế hội, xin Tổ giải quyết.

    Tổ Ngộ nói: “Ông hỏi đi!”

    Sư vừa mới cất lời, Tổ Ngộ liền nói: “Trước sân, cây bách!”

    Sư bèn tỏ suốt, nói với Tổ rằng : “Người xưa nói “Như một giọt nước rớt vào trong ao lớn”, nào chẳng biết “Biển lớn rớt vào trong một giọt nước”!”

    Tổ cười nói: “Kể sá gì lão ấy! Chưa chi đã khiến phân tòa giảng!”

    Rồi nói bài kệ:

    “Thôi khoe Tứ Phận [Bốn phần Luật], dẹp Lăng Nghiêm

    Ở chốn đầu mây, triệt để tham

    Chẳng học Lương Công gần Mã Tổ

    Mà như Đức Kiểu [Đức Sơn] lễ Long Đàm

    Ba thu bay lượn núi Bích Nham

    Nay phiền ngồi tạm Nhất Tòa nhé

    Giữa chốn trăm hoa, hiện Ưu Đàm”.


    Người xưa thực tham, thực chứng, trải qua bao nhiêu Chuyển Y rồi sau mới được chỗ yên ổn mà ngồi. Thế biết cái “Diệt Vọng gọi là Chân” chẳng phải dễ chứng đắc.



  4. #3
    NỤ Avatar của Thiện Tâm
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    601
    Thanks
    275
    Thanked 229 Times in 156 Posts


    Kinh:

    “Anan, thế nào là Điên Đảo tạo thành Thế Giới?

    “Cái Có đó có được là do từng phần từng đoạn vọng sanh. Do đó mà Giới (Không Gian) kiến lập, chẳng phải nhân mà làm nhân, không có trụ mà làm trụ. Trôi dời chẳng trụ, do đó mà Thế (Thời Gian) thành. Bốn phương ba đời hòa hợp giao thiệp lẫn nhau biến hóa thành chúng sanh mười hai loài. Thế nên, thế giới thì nhân động có Tiếng, nhân Tiếng có Sắc, nhân Sắc có Hương, nhân có Hương có Xúc, nhân Xúc có Vị, nhân Vị biết Pháp. Sáu vọng tưởng lộn loạn thành nghiệp tính, bởi thế mà có mười hai Phần Hạn (Loài) xoay chuyển. Vậy nên trong thế gian, các thứ Thanh, Hương, Vị, Xúc... biến đổi cùng tột đến mười hai lần là quay trở lại.

    “Dựa theo Tướng Điên Đảo luân chuyển đó mà có ra Thế Giới, thành những loài: noãn sanh, thai sanh, thấp sanh, hóa sanh, hữu sắc, vô sắc, hữu tưởng, phi hữu sắc, phi vô sắc, phi hữu tưởng, phi vô tưởng.

    Thông rằng:

    Trong bốn quyển trước thì nói Phương (Không Gian), Thế (Thời Gian) giao thiệp lẫn nhau, biến đổi ba lần. Đó là đối với Y Báo (Cõi Giới) hiển bày Chánh Báo (Chúng Sanh), do vậy mà bảo rằng công đức của sáu Căn, mỗi cái là một ngàn hai trăm.

    Còn ở đây, trong sự giao thiệp lẫn nhau, lấy Y Báo theo Chánh Báo nên nói biến hóa thành mười hai loài chúng sanh để bày rõ điên đảo của thế giới. Ở trước thì nói rằng Công Đức, ở đây thì nói là Điên Đảo, đều là do sáu căn thành tựu. Chìm đắm tức là Điên Đảo, siêu việt tức là Công Đức, trong khoảng trở bàn tay vậy. Sáu Căn, sáu Trần là mười hai phần hạn. Kiến Phần và Tướng Phần đan dệt với nhau thành mười hai biến hóa. Thanh, Hương, Vị, Xúc là do bốn Đại tạo ra. Sáu Vọng Tưởng lộn loạn huân tập thành chủng tử nghiệp tính. Đây là nguyên do thành lập ra Kiến Phần của mười hai loài. Tứ Đại nương theo mười hai phần hạn, luân chuyển cùng tột mười hai lần biến đổi. Đó là nguyên do thành lập ra Tướng Phần của mười hai loài. Căn Thân thì gần gũi còn Tướng phần khí giới là xa lạ. Tướng Phần trọn không ra ngoài sáu Trần. Chỗ khởi ra của sáu Trần vốn không có trước sau, mà đây chỉ lấy Thanh đứng trước. Vì sao thế? Khi trời đất mới động, Lôi Chấn [Sấm sét, quẻ Dịch] có ra tiếng, kinh động vang đến trăm dặm, nghe được rất xa nên chỗ tiếp xúc của sáu Căn thì Âm Thanh là trước hết. Còn năm Trần kia thì lần lần đến gần mới biết được. Đến mùi vị lấy miệng mà biết, pháp thì dùng tâm mà biết lại càng gần nhất. Nhưng nói tướng nhân Âm Thanh mà tưởng thấy Sắc, nhân Sắc mà thầm biết Hương, tiếp xúc Hương mà nhân đó tiếp xúc với Thể, nhân tiếp xúc với Thể mà biết phân biệt Mùi Vị, nhân phân biệt Vị mà biết chọn Pháp thì đó là chuyện tương duyên mà khởi ra, không có trước sau.

    Trong hai mươi lăm Viên Thông thì bắt đầu là Âm Thanh mà xoay lại cái Nghe là kết thúc. Chỗ này cũng giúp cho thấy cái Căn Nghe là tối tròn vẹn. Nhưng Căn với Trần đan dệt nhau mà mỗi bên thành ra phần đoạn, đó là nghĩa Giới. Trôi dời chẳng ngừng, chuyển vần ba cõi đó là nghĩa Thế. Thế, Giới hòa hiệp, căn trần đầy lấp. Cái chỗ có mà có được là lấy cái chẳng phải nhân làm nhân. Vốn không có nguyên nhân gì mà lại vọng sanh phân biệt nên là cái Điên Đảo tạo thành Thế Giới. Nếu cả sáu Vọng Tưởng lộn loạn dứt ngay một lượt, trong chẳng thấy Căn, ngoài chẳng thấy Trần, thì cái Thế Giới này không có chỗ trụ, vốn tự vô sanh, thì còn có Điên Đảo gì đâu?

    Thiền sư Sở Nam ban đầu tham hỏi Tổ Phù Dung.

    Tổ Dung nói : “Ta chẳng phải thầy ông. Thầy ông chính là Hoàng Bá!”

    Sở Nam bèn đến ra mắt Tổ Hoàng Bá.

    Tổ Bá hỏi : “Ông khi chưa hiện hình tượng ba cõi thì sao?”

    Sư Nam nói : “Vậy nay há là có sao?”

    Tổ Bá nói : “Có, Không hãy để đó. Nay đây thì sao?”

    Sư Nam nói : “Chẳng kim cổ”.

    Tổ Bá nói : “Pháp nhãn của ta đã ở nơi thân ông rồi vậy”.

    Về sau, có nhà sư hỏi thiền sư Sở Nam rằng : “Thế nào là dễ?”

    Sư đáp: “Mặc áo ăn cơm, không cần đọc kinh, học giáo, không phải hành đạo lễ bái hay đốt hương thiêu đảnh, thế chẳng dễ ư?”

    Hỏi: “Thế nào là khó?”

    Đáp rằng: “Mảy niệm vừa sanh bèn đủ cả năm ấm! Sanh tử luân hồi ba cõi đều từ một niệm nơi ông mà sanh. Bởi thế, Phật dạy Chư Bồ Tát rằng: “Đó là chỗ hộ niệm của Chư Phật”.

    Thật như thiền sư Sở Nam tiền tế, hậu tế đều đoạn là do biết sợ một niệm động. Đó quả là thấu rõ cái nguyên nhân của Thế Giới Điên Đảo vậy.



  5. #4
    NỤ Avatar của Thiện Tâm
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    601
    Thanks
    275
    Thanked 229 Times in 156 Posts


    III. KHAI THỊ BA TIỆM THỨ TU TẬP

    Kinh:

    “Anan, như thế chúng sanh trong mỗi mỗi loài cũng đều đầy đủ hết mười hai thứ Điên Đảo. Cũng như dụi mắt thì hoa đốm cuồng loạn phát sanh, Chân Tâm tròn sáng trong sạch nhiệm mầu mà Điên Đảo thì đầy đủ loạn tưởng hư vọng như thế. Nay ông tu chứng Tam Ma Đề của Phật thì đối với các loạn tưởng làm nguyên nhân cội gốc của các Điên Đảo, phải lập ra ba tiệm thứ mới trừ diệt được. Cũng như trong đồ đựng sạch sẽ trừ bỏ mật độc, dùng nước nóng và chất tro, chất thơm rửa sạch đồ đựng, rồi sau mới chứa nước cam lồ.

    “Thế nào là ba món tiệm thứ? Một là, tu tập trừ các Trợ Nhân. Hai là, chân tu, nạo sạch Chính Tính. Ba là, tăng tiến trái lại Hiện Nghiệp.

    Thông rằng:

    Mười hai thứ Điên Đảo đều từ trong Chân Tâm minh tịnh biến khởi. Bắt đầu trong một niệm Ái Thủ. Có Thương thì có Ghét, có Thủ thì có Xả. Do đó, bốn thứ Thai, Noãn, Thấp, Hóa đều do Tình, Tưởng, nặng nhẹ tùy theo mỗi loài.

    Các loài Hữu Sắc, Vô Sắc, Hữu Tưởng, Vô Tưởng chỉ là hai câu Hữu, Vô. Nhưng do cái Tưởng mà sanh hóa, thì Tưởng càng ngày càng vi tế, sự sanh hóa càng lần lần thuần khiết. Các loài hoặc chẳng phải Hữu Sắc, hoặc chẳng phải Vô Sắc, hoặc chẳng phải Hữu Tưởng, hoặc chẳng phải Vô Tưởng gồm ở trong ấy hai cái “Cũng Là”, hai cái “Chẳng Phải”. Quả là do Tình mà biến hóa, Tình càng vướng mắc thì càng biến hóa càng khổ. Tình, Tưởng, Thương, Ghét phô bày lẫn lộn, không loài nào chẳng có, nên trong mỗi loài mỗi mỗi đều đủ mười hai thứ điên đảo.

    Tình, Tưởng giống như mắt nhặm; Điên Đảo giống như hoa đốm lăng xăng. Hoa đốm lăng xăng ở trong hư không mà chẳng ngăn ngại được hư không. Điên Đảo ở trong Chân Tâm Diệu Viên mà chẳng thể chướng ngại Tánh Diệu Viên. Dù đủ loạn tưởng hư vọng thế kia, rốt ráo nơi Chân Tâm minh tịnh chẳng hề ngăn ngại, rồi sau thấy được cái Diệu Viên vậy. Chân Tâm Diệu Viên tức là Tam Ma Địa, rỗng suốt nhiệm mầu bao la như hư không tạnh ráo. Mười hai thứ Điên Đảo chỉ do sáu Vọng Tưởng hỗn loạn làm Bổn Nhân. Mắt nhặm nếu trừ, hoa cuồng tự dứt.

    Nhưng trừ loạn tưởng phải lập ra ba món tiệm thứ. Vì sao? Vì như một cái bình sạch, vốn là đồ chứa đựng nước cam lồ, một khi bị mật độc nhiễm dơ mà đổ ngay cam lồ vào thì cam lồ trở thành thuốc độc. Ắt là phải súc rửa bằng nước sôi cọng với tro, chất thơm cho trơn sạch, trải qua tháng năm, thì độc khí dần dần tiêu, cam lồ mới có thể cho vào. Ba món tiệm thứ này chính là nước sôi, tro, chất thơm để rửa sạch loạn tưởng vậy.

    Bốn thứ khuyên dạy ở trước là Sát, Đạo, Dâm, Vọng đã đủ Chánh Giới, đây lại trừ Trợ Nhân của Dâm, Nộ, Si, nạo sạch cái Chánh Tính của Sát, Đạo, Dâm, Vọng, dần dần xa lìa Vô Minh hiện hành. Do đấy tăng tiến, ngược dòng toàn nhất, sáu cái Dụng chẳng hiện hành, trái nghịch Hiện Nghiệp thì tâm không trôi dạt. Tình ái khô khan, loạn tưởng không tự khởi lên thì Điên Đảo lấy đâu mà sanh? Chỉ một Chân Tâm rồi sau mới lập các Thánh vị. Bốn mươi bốn Tâm để nhập chân Tam Ma Địa của Diệu Giác. Cũng như mật độc đã tiêu, bèn chứa được cam lồ vậy.

    Thiền sư Đại Tùy Chân thượng đường nói: “Tánh này vốn xưa nay thanh tịnh, sẵn đủ muôn đức. Chỉ bởi hai duyên nhiễm, tịnh mà có sai khác. Cho nên các Thánh ngộ nó thì cứ một bề dùng trong sạch mà thành đạo Giác. Người phàm mê nó thì cứ một bề dùng dơ nhiễm mà chìm đắm luân hồi. Thể nó không hai, nên kinh Bát Nhã nói “Không hai, không hai phần vì không riêng không dứt vậy”.

    Nếu tin được lời nói của Ngài Đại Tùy, “Thể nó không hai”, thì vốn là một bình chứa tinh sạch, chứa độc mật chẳng có hao bớt mà đựng cam lồ cũng chẳng tăng thêm. Thẳng đến Bồ Đề Vô Thượng, nhiễm tịnh đều không dính dáng, thì sau có dẹp bỏ chỗ nói về ba món tiệm thứ cũng không phải là không thể được vậy.



  6. The Following User Says Thank You to Thiện Tâm For This Useful Post:

    dieunghiem (11-04-2015)

  7. #5
    NỤ Avatar của Thiện Tâm
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    601
    Thanks
    275
    Thanked 229 Times in 156 Posts


    Kinh:

    “Thế nào là Chính Tính?

    “Anan, chúng sanh như thế vào Tam Ma Đề trước hết cốt phải nghiêm trì Giới Luật thanh tịnh, vĩnh viễn đoạn trừ lòng Dâm, chẳng dùng rượu thịt, chỉ ăn đồ ăn trong sạch nấu chín, không ăn đồ sống. Anan, người tu hành đó, nếu chẳng đoạn Dâm Dục và Sát Sanh mà ra khỏi ba cõi, thì không thể có. Phải quan sát sự Dâm Dục như rắn độc, như thấy giặc thù.

    “Trước hết, hãy giữ gìn Tứ Khí, Bát Khí của Giới Luật Thanh Văn, nắm giữ thân chẳng động. Sau đó, hành trì Luật Nghi thanh tịnh của hàng Bồ Tát, nắm giữ tâm chẳng khởi. Giới Cấm thành tựu thì trong thế gian đời đời không còn nghiệp sanh sát nhau. Trộm cướp chẳng làm, thì không còn mắc nợ nhau, và khỏi trả nợ đời trước trong thế gian. Người trong sạch đó tu Tam Ma Địa, ngay nơi thân xác thịt cha mẹ sanh, không cần thiên nhãn tự nhiên xem thấy mười phương thế giới, thấy Phật nghe Pháp, chính mình vâng lĩnh Thánh Chỉ của Phật, đắc đại thần thông, dạo khắp mười phương thế giới, túc mạng được thanh tịnh, được không khó khăn nguy hiểm.

    “Đó gọi là tiệm thứ tu hành tăng tiến thứ hai.

    Thông rằng:

    Sát, Đạo, Dâm sao gọi là Chính Tính?

    Kinh Viên Giác nói: “Hết thảy chúng sanh đều lấy Dâm Dục mà “chính [Tạo thành]” tánh mạng”. Vì Chánh Báo của chúng sanh do cảm lấy Dâm Dục mà sanh ra, nên lấy Dâm Dục làm Chính Tính, tức là ở trước có nói Tánh Nghiệp, Giá Nghiệp. Lại vì đối với Trợ Nhân mà nói, nên gọi là Chánh Tính. Nói là Nạo Sạch, ví như nạo khoét cây làm thuyền, dần dần làm cho trống không để mang chở. Nên Tánh Nghiệp, Giá Nghiệp đều không mới hợp với nghĩa nạo vét.

    Cái Căn Dâm rất khó đoạn, phải xem như rắn độc, vì hại đến Pháp Thân vậy. Phải thấy như giặc thù vì làm tổn thương Huệ Mạng. Trước giữ Giới Thanh Văn khiến không có thân phạm. Sau giữ Giới Bồ Tát khiến không có tư tưởng phạm. Cấm Giới thành tựu thì Giới mà không có chỗ Giới. Dâm dứt thì không còn Nghiệp tương sanh. Sát dứt thì không có Nghiệp tương sát. Trộm cắp dứt thì không có Nghiệp trả nợ. Ngay nơi thân tâm này sáu Căn thanh tịnh, không cần Thiên Nhãn mà chứng Ngũ Thông. Nhãn Thông nên xem thấy mười phương. Nhĩ Thông nên nghe Phật thuyết pháp. Thần Thông nên có thể dạo khắp mười phương cõi. Túc Mạng Thông nên không có khó khăn nguy hiểm. Tha Tâm Thông, tự tại ở trong ấy. Duy chỉ có Lậu Tận Thông thì không dễ chứng. Chỗ này giống kinh Pháp Hoa dạy rằng: “Thân hiện tại được sáu Căn thanh tịnh tức là địa vị tương tự. Thế thì nghiêm giữ Giới Luật thanh tịnh đâu có thể tự trễ nải ư?”

    Thiền sư Dũng Tuyền Hưng thượng đường nói: “Tôi bốn mươi chín năm ở trong ấy mà còn tự có khi lộn xộn (tẩu tác). Này các ngươi chớ múa mỏ khua môi. Người kiến giải thì nhiều, người hành giải cả vạn, trong đó không có một người hiểu rõ lời lẽ biết suốt cái cần yếu. Nếu Thức chẳng hết, dám nói hết chuyện luân hồi ư? Vì sao như vậy? Bởi vì Thức Lậu chưa hết. Ông mà hết sạch ngay giờ mới được thành lập. Cũng gọi là Lập Trung Công, chuyển công tựu thành cái kia. Cũng gọi là Tựu Trung Công, thân với cái kia vậy. Bởi thế, tôi mới nói: Người thân chẳng được độ, hắn chẳng độ người thân. Thí dụ như vậy còn chẳng hiểu thì chỉ tiến lên hít lấy cái hơi mù mịt, chỉ nắm giữ cái tánh loạn động nơi đầu lưỡi. Chẳng thấy Tổ Động Sơn nói “Tương tục, ấy là đại nạn”. Các ông cần biết có sự việc này, nếu không biết, có ngày rồi khóc lóc!”

    Mới biết rằng Giới Hạnh dũng mãnh, cốt yếu là dứt sạch tức thì, chuyển công thành vị, vào Tam Ma Địa. Chẳng thế thì dùng huyễn để tu huyễn, uổng công siêng nhọc, ăn nhằm gì đến Tự Tánh đâu!



  8. The Following User Says Thank You to Thiện Tâm For This Useful Post:

    dieunghiem (11-04-2015)

  9. #6
    NỤ Avatar của Thiện Tâm
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    601
    Thanks
    275
    Thanked 229 Times in 156 Posts


    Kinh:

    “Thế nào là Hiện Nghiệp?

    “Anan, người giữ gìn Cấm Giới thanh tịnh như vậy, Tâm không tham dâm, đối với sáu Trần ở ngoài không hay giong ruổi theo. Do không giong ruổi nên tự quay về Tánh gốc. Trần đã chẳng duyên, Căn không chỗ hợp, ngược dòng toàn nhất, sáu Dụng chẳng hành. Mười phương cõi nước sáng suốt thanh tịnh, như ngọc lưu ly bên trong treo mặt trăng sáng. Thân Tâm rỗng khoái, bình đẳng diệu viên, được đại an ổn. Mật Viên Tịnh Diệu của tất cả Như Lai đều hiện trong đó. Người ấy liền được Vô Sanh Pháp Nhẫn. Từ đó lần lượt tu hành, tùy chỗ phát Hạnh mà an lập các Thánh vị.

    “Đó gọi là tiệm thứ tu hành tăng tiến thứ ba.

    Thông rằng:

    Hiện Nghiệp là Nghiệp tạo ra của Vô Minh hiện hành, tức là các Nghiệp Sát, Đạo, Dâm ở trên.

    Giữ Cấm Giới thì đối với sáu Trần ở ngoài chẳng hay giong ruổi theo, hay đoạn trừ phiền não khách trần, hay trừ được Kiến Hoặc. Trần đã chẳng duyên theo thì Căn không chỗ gặp hợp, hay phá Vô Minh vi tế, hay trừ được Tư Hoặc. Chưa trừ hai cái Hoặc thì cũng còn tùy thuận theo Hiện Nghiệp, chưa chịu nghịch lại. Giờ tự quay vào lặng trong, nghịch lại với Hiện Nghiệp vậy. Vì giong ruổi nên sáu Dụng hiện hành, thế là trái với Giác, hợp với Trần thành sáu Vọng Tưởng loạn khởi ra Nghiệp hiện giờ. Bởi ngược dòng nên sáu Dụng chẳng hiện hành, thế là trái với Trần, hợp với Giác thành một Tánh trong lặng tròn sáng, Mật Viên Tịnh Diệu của tất cả Như Lai đều hiện ra trong đó. Lý mật trí viên tịnh hành nhiệm mầu phù hợp không dấu vết. Pháp Thân thanh tịnh như ngọc lưu ly. Chân Trí trong suốt giống như trăng sáng. Thân Tâm rỗng khoái, Căn, Cảnh đều dung thông, Diệu Viên bình đẳng, được đại an ổn bèn được Vô Sanh Pháp Nhẫn mà vào Tam Ma Địa. Từ đó tiệm tu, an lập Thánh Vị cho đến bậc Đẳng Giác.

    Cái Giác này mới được vị Càn Tuệ Địa ban đầu trong Tâm Kim Cang, bèn chứng Tam Ma Địa của Phật, cứu xét tận hết bổn nhân, cùng tột vị Diệu Giác vậy. Đây là chỗ bước vào, đoạn văn sau là chỗ tu, rốt ráo chỗ chứng, đều là Tam Ma Địa của Phật, đó gọi là “Cửa vào một đường Niết Bàn của mười phương Chư Phật”.

    Chỗ này cốt ở Đốn Chứng, cớ sao lại lập thêm các món tiệm thứ để tăng tiến? Bởi vì Lý cần Đốn Ngộ, Sự theo đó lần hồi dứt trừ. Trước hết, trừ cái Trợ Nhân, kế nạo sạch Chánh Tánh, rồi trái với Hiện Nghiệp. Tất cả đều ở trên Sự mà tiêu dung dần dần. Cảnh càng vào Chân thì công phu càng thêm tế mật. Tuy chủ Đốn Ngộ, chẳng bỏ Tiệm Tu. Đây là gồm trọn cả ba căn Thượng, Trung và Hạ nên là Pháp Môn Viên Đốn vậy.

    Thiền sư Kính Sơn Liễu Nhất thượng đường, nói: “Người học Đạo chạm cảnh, gặp duyên mà không thể lập tức thấu thoát (tỏ suốt) đều vì Nghiệp Thức sâu nặng, Vọng Tình gắn chặt. Sáu cửa chưa dứt thì một chỗ chẳng thông. Cái Tánh thuần túy trong sạch không một điểm vết thì phàm phu khó đến. Cần ngay “Vào rừng không động lá, vào nước không nổi sóng” mới có thể thuận dòng sanh tử, vào với nhân gian. Chư vị ơi, có hiểu chăng?”

    Bèn lấy cây gậy quơ vẽ mà nói: “Chỉ hướng trong ấy mà tiến nhận”.

    Giả sử có tay nào ở đây tiến nhận được, giống như lưu ly trong sạch ngậm trăng sáng ở trong, thì có gọi là người xong việc không, nhỉ?

    Chẳng thấy Tổ Nam Tuyền đang cùng Ngài Triệu Châu thưởng trăng.

    Ngài Châu nói: “Bao lâu thì được tương tự như cái kia?”

    Tổ Tuyền nói: “Vương lão sư này hai mươi năm trước đã từng như vậy đó”.

    Ngài Châu: “Nay thì sao?”

    Tổ Nam Tuyền bèn quay về phương trượng.

    Ngài Thiên Đồng nêu ra rằng: “Hai mươi năm trước để yên đó. Hai mươi năm sau làm sao đây? Có biết chỗ bước của Vương lão sư chăng? Trong nhà không linh sàng, vợ đâu mặc đồ tang!”

    Ôi, “Thanh tịnh như lưu ly bên trong treo trăng sáng” tức là chỗ đoạn sau nói “Càn Tuệ Địa” vậy. Mật Viên Tịnh Diệu của tất cả Như Lai đều hiện ra trong đó thì chỗ thấy chốn nào chẳng sáng tỏ, nhưng còn thiếu bước dẫm đi. Thế nên, có biết chỗ dẫm đi của Tổ Nam Tuyền thì hai mươi năm trước được tương tự cái kia cũng là chưa xong.



  10. The Following 2 Users Say Thank You to Thiện Tâm For This Useful Post:

    dieunghiem (11-04-2015),thubuon (11-06-2015)

  11. #7
    NỤ Avatar của Thiện Tâm
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    601
    Thanks
    275
    Thanked 229 Times in 156 Posts


    CHƯƠNG IV: KHAI THỊ CÁC ĐỊA VỊ TU CHỨNG

    MỤC HAI: AN LẬP CÁC THÁNH VỊ



    I. CÀN TUỆ ĐỊA.

    Kinh:

    “Anan, người thiện nam ấy, Dục Ái cạn khô, Căn Cảnh chẳng phối hợp, cái Thân Tâm hiện tại không còn sanh tiếp nữa. Nắm lấy Tâm rỗng sáng, thuần là Trí Huệ. Tánh Huệ toàn sáng tỏ sáng mười phương thế giới. Mới có cái Huệ khô khan, gọi là Càn Huệ Địa.

    Thông rằng:

    Dục Ái thấm nhuần thành nghiệp, Căn và Cảnh tạo nghiệp nên sanh tử nối tiếp, mê muội chẳng quay về. Nay lòng Dục khô cạn, Cảnh lui đi, nên cái Thân Tâm nhân thế chẳng còn sanh tiếp. Ngược dòng toàn nhất ắt giữ lấy cái Tâm rỗng sáng. Sáu Dụng chẳng hiện hành tức thuần là Trí Huệ. Chẳng dùng gì nơi Dục Ái thì Huệ chẳng lìa ngoài Tự Tánh, như ánh sáng viên ngọc không dùng soi chiếu vật mà chỉ tự chiếu cái Thể của nó.

    Đây là cái sáng suốt cho đến chỗ không lập ra cái Sở, thì cái sáng toàn vẹn vậy. Mười phương cõi nước rỗng sáng thanh tịnh, ví như lưu ly ở trong treo trăng sáng, nên gọi là “Tỏ sáng”. Đây là Dục Ái cạn khô nên phát Huệ, mới gọi là Càn Huệ. Lại chỉ mới có cái Huệ khô khan, chưa đến chỗ Diệu Viên, nên là Sơ Địa. Trong Thập Địa của kinh Đại Phẩm thì Địa đầu tiên gọi là Càn Huệ. Trong Viên Giáo của Ngài Thiên Thai, trước Thập Tín lập ra Ngũ Phẩm Vị, gọi là nghĩa Thôi [Chuyển đổi, từ bỏ] cũng giống như Càn Huệ Địa của kinh Đại Phẩm. Kinh này chưa đến đây mà chỗ lập ra danh vị của Ngài Thiên Thai đã thầm hợp với Tâm Phật. Chẳng phải là bậc tự thân đến được hội Linh Sơn thì làm sao có được như thế!

    Quan Đại Phu Lục Tuyên thưa với Tổ Nam Tuyền: “Đệ tử cũng hiểu sơ sơ Phật Pháp”.

    Tổ Tuyền bèn hỏi: “Trong mười hai thời, ông làm gì?”

    Đáp: “Chẳng dính mảy lông”.

    Tổ Tuyền nói : “Còn là kẻ dưới thềm”.

    Lại nói: “Ông há chẳng nghe “Quân Vương có Đạo chẳng thu bầy tôi có Trí” ư?”

    Về sau, có nhà sư hỏi thiền sư Kim Phong Chí rằng: “Khi “Ngàn núi không mây, ngàn dặm tuyệt ráng” thì sao?”

    Tổ Chí nói: “Ngọn Phi Thiên Lãnh, phía nào mà chẳng mửa hết ra!”

    Quả là cùng Tổ Nam Tuyền trước sau một vết bánh xe. Thế biết Càn Tuệ Địa cũng là chỗ tạm nghỉ. Bằng như cùng tận Diệu Giác thì cái ý rốt ráo phải tự riêng khác.



  12. The Following User Says Thank You to Thiện Tâm For This Useful Post:

    thubuon (11-06-2015)

  13. #8
    NỤ Avatar của Thiện Tâm
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    601
    Thanks
    275
    Thanked 229 Times in 156 Posts


    Kinh:

    “Chân Tín sáng rõ, hết thảy viên thông. Ba thứ Ấm, Xứ, Giới không thể ngăn ngại. Như vậy cho đến trong vô số kiếp quá khứ, vị lai tất cả tập khí bỏ thân, thọ thân đều hiện ra trước mắt, người thiện nam này đều có thể nhớ tưởng không quên mất, gọi là Niệm Tâm Trụ.

    Thông rằng:

    Niệm Tâm Trụ ở trong Thập Tín này là Túc Mạng Thông. Trước có nói “Cấm Giới thành tựu, sáu Căn thanh tịnh không cần Thiên Nhãn, xem thấy mười phương túc mạng thanh tịnh, được không khó khăn nguy hiểm, cũng lần lần ra khỏi ngăn ngại” Ở đây, cả quá khứ, vị lai trong vô số kiếp đều có thể tưởng nhớ, ắt viên thông sáng rõ. Đây là trong Chân Tín phát khởi, Tánh Không đâu chẳng toàn khắp, nên suốt thông không đâu chẳng thấu đến. Đây là đã chứng Chân nên địa vị “Tương Tự” chẳng thể sánh được. Không chứng Chân thì Ấm, Xứ, Giới làm ngăn ngại, nên không thể thông suốt. Nay nắm giữ cái tâm rỗng sáng; căn, cảnh chẳng dính nhau, lâu ngày thì Chân Diệu một mình bày lộ, siêu vượt lên căn, cảnh. Do đó, tất cả tập khí do Tư Hoặc kết thành như quá khứ bỏ thân, vị lai thọ thân đều rõ ràng trước mắt, mà không quên mất.

    Cái Niệm Tâm vốn thuộc sanh diệt, nay lấy Chân Tín mà nắm giữ nó thì niệm cũng an trụ, tức niệm tức Chân, lấy Chân, Vọng dung nhau thành một. Túc Mạng Thông từ bậc A La Hán cho đến cõi Phi Phi Tưởng, các ngoại đạo thì biết trước sau đến tám vạn kiếp. Nhưng vô số kiếp tức là A Tăng Kỳ kiếp thì ngoài Phật không ai chứng được. Xứ này, người biết quá khứ thì cũng đã có, còn người biết vị lai thì không nhiều.

    Thiền sư Huệ Trung ở núi Ngưu Đầu nghe thiền sư Uy ra đời bèn đến thăm.

    Thiền sư Uy vừa thấy, nói rằng: “Sơn chủ đến vậy”.

    Ngài Huệ Trung cảm ngộ, ở lại hầu hạ.

    Sau này, Huệ Trung xin đi các nơi tham học.

    Một hôm, thiền sư Uy thấy cây Lăng Tiêu nơi Viện Cụ Giới gặp mùa Hạ nên héo úa. Có người muốn chặt đi, Ngài bảo: “Đừng chặt, khi Huệ Trung về, nó sẽ sống lại!”

    Sau, Ngài Huệ Trung trở về, quả như lời nói, bèn giao Sơn Môn cho Huệ Trung.

    Lại như Ngài Linh Thọ, suốt hai mươi năm không có Thủ Tòa. Ngài thường nói: “Thủ Tòa của ta đã sanh rồi! Thủ Tòa của ta đang chăn trâu! Thủ Tòa của ta đang hành cước !”

    Một hôm, bảo đánh chuông, ra ngoài tam môn tiếp đón vị Thủ Tòa. Đại chúng ra đón thì quả là Ngài Vân Môn đến, bèn mời thẳng vào liêu Thủ Tòa.

    Mở gói hành lý xong, trình thơ cho Tổ Linh Thọ, viết rằng: “Đây là vị Thủ Tòa trong chùa, con mắt của trời, người”.

    Ngài bèn mời Tổ Vân Môn khai đường.

    Hai vị tôn túc trên, có thể nói là đắc Niệm Tâm Trụ.



  14. The Following User Says Thank You to Thiện Tâm For This Useful Post:

    thubuon (11-06-2015)

  15. #9
    NỤ Avatar của Thiện Tâm
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    601
    Thanks
    275
    Thanked 229 Times in 156 Posts


    Kinh:

    “Diệu Viên thuần Chân, Chân Tinh phát hóa ra, các tập khí vô thủy thông thành một Tinh Minh. Chỉ nhân Tinh Minh ấy tiến đến chỗ Chân Tịnh, gọi là Tinh Tiến Tâm.

    Thông rằng:

    Từ Chân Tín lần vào nên có thể tưởng nhớ. Từ Thuần Chân lần vào nên được cái Tinh Minh. Chân hay chuyển hóa cái Vọng thì Chân Tinh phát hóa là không thể nghĩ bàn, nên tập khí từ vô thủy hóa thành Tinh Minh. Ở trước nói “Tập khí hiện tiền”, đến đây hóa thành Tri Giác Vô Thượng vậy. Tịnh mà đối với nhiễm thì chưa là Chân Tịnh. Chẳng dơ, chẳng sạch mới là Chân Tịnh. Nhân dùng cái Tinh Minh này tiến đến Chân Tịnh, ấy là muốn dẹp bằng dấu vết của cái “Thông thành một Tinh Minh” mà đều chuyển hóa hết vậy. Sự chuyển hóa này chẳng thể làm được thì sự Tiến cũng chẳng Tinh vậy.

    Nhà sư hỏi Tổ Hoàng Bá: “Thế nào là Tinh Tiến?”

    Tổ Bá nói: “Thân tâm chẳng khởi, đó là Tinh Tiến mạnh mẽ đệ nhất. Vừa khởi Tâm hướng ngoài tìm cầu thì gọi là “Vua Ca Lợi ưa đi săn bắn”. Tâm chẳng đi rong ở ngoài tức là “Tiên nhơn nhẫn nhục”. Thân tâm đều không, đó là Phật đạo”.

    Kinh Pháp Cú nói: “Nếu khởi tâm Tinh Tiến, đó là vọng chứ chẳng phải Tinh Tiến. Nếu Tâm thường chẳng vọng, đó là Chân Tinh Tiến”.

    Ngài Thiên Thai Trí Giả tụng kinh Pháp Hoa ở núi Nam Nhạc đến chỗ phẩm Dược Vương: “Đó là Chân Tinh Tiến, đó gọi là Chân Pháp cúng dường Như Lai”, ngay đó ngộ nhập Pháp Hoa Tam Muội, được gọi là Toàn Đà La Ni, thấy Pháp Hội Linh Sơn rõ ràng chưa tan.

    Đây có thể nói là tập khí vô thủy thông thành một Tinh Minh vậy. Hẳn là tiến đến chỗ thân tâm đều Không, mới gọi là Chân Tịnh. Lìa ngoài Chân Tịnh mà riêng cầu chuyện tinh tiến đó là vọng vậy.



  16. The Following User Says Thank You to Thiện Tâm For This Useful Post:

    thubuon (11-06-2015)

  17. #10
    NỤ Avatar của Thiện Tâm
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    601
    Thanks
    275
    Thanked 229 Times in 156 Posts


    Kinh:

    “Tâm Tinh hiện tiền, thuần dùng Trí Huệ, gọi là Huệ Tâm Trụ.

    Thông rằng:

    Càn Huệ Địa ở trước sao không gọi là Huệ Tâm Trụ? Trước nói: “Nắm giữ Tâm rỗng sáng”, là còn có nắm giữ vậy. Đây nói: “Tâm Tinh hiện tiền”, tức là cái nắm giữ đã chuyển hóa rồi vậy. Trước nói: “Thuần là Trí Huệ”, tức còn mang lấy cái “Là”. Đây nói: “Thuần dùng Trí Huệ”, tức đâu đâu cũng là cái dùng của Trí Huệ, đều mất cái Là vậy.

    Chỗ này nếu chẳng phải Tinh Minh rõ suốt, linh quang hiển hiện thì chưa dễ nói ra được. Ban đầu thì nói có cái Trí Huệ ấy. Đến chỗ thuần là Trí Huệ thì có mà an trụ rồi, lại tiến thêm một bước.

    Trong thiền môn thuần dùng Trí Huệ, duy chỉ có một tay Lâm Tế thật khó gặp một người thứ hai. Ngài thường nói: “Sơn tăng chốn này đoán định ba thứ Căn Khí: như hàng căn khí trung hạ đến, ta bèn đoạt Cảnh nó mà chẳng trừ Pháp nó. Nếu là hàng căn khí trung thượng đến, ta bèn Cảnh, Pháp đều đoạt. Như có người căn khí thượng thượng đến, ta bèn Cảnh, Pháp, Người đều đoạt. Như có người kiến giải xuất cách đến thì sơn tăng chốn đây bèn toàn thể tác dụng, chẳng cần Căn Khí. Các Đại Đức, đến trong ấy mà chỗ nỗ lực của học nhơn chẳng thông rõ phong đại, lửa đá, chớp xẹt tức qua liền vậy. Người học mà con mắt định nếu động, liền mất giao thiệp. Tâm nghĩ tức sai, động niệm tức trái! Có người nào rõ biết, chẳng lìa trước mắt. Các Đại Đức, các ông mang bát phẩn, vác con chạy nhà người, cầu Phật, cầu Pháp tức nay cùng cái gì chạy tìm thế? Các ông chẳng biết nó chăng? Sống sờ sờ ra đó, chỉ cái chẳng bám níu. Ôm lấy chẳng tụ, vứt đi chẳng tan. Tìm cầu liền mất xa, không cầu là trước mắt”.

    Linh âm phó chúc bên tai, như chẳng có tin uổng nhọc trăm năm lần lữa. Như tin được “Sống sờ sờ ra đó” thì với Huệ Tâm Trụ đâu có xa!



  18. The Following User Says Thank You to Thiện Tâm For This Useful Post:

    thubuon (11-06-2015)

Thông tin chủ đề

Users Browsing this Thread

Hiện có 1 người đọc bài này. (0 thành viên và 1 khách)

Quyền viết bài

  • Bạn không thể gửi chủ đề mới
  • Bạn không thể gửi trả lời
  • Bạn không thể gửi file đính kèm
  • Bạn không thể sửa bài viết của mình
  •