Bài 75.
10. THIỀN SƯ CHÍ ĐẠO 志道 Ở QUẢNG CHÂU.
Người Nam Hải. Ban đầu đến tham vấn Lục Tổ, thưa:
- Từ khi học nhân xuất gia, xem kinh Niết bàn có hơn mười năm mà chưa rõ đại ý. Mong Hòa thượng rủ lòng dạy bảo.
Tổ hỏi:
- Ông chưa rõ chỗ nào?
Đáp:
Chư hành vô thường,
Thị sanh diệt pháp.
Sanh diệt diệt dĩ,
Tịch diệt vi lạc.
諸行無常
是生滅法
生滅滅已
寂滅為樂
Chư hành vô thường,
Là pháp sanh diệt.
Sanh diệt diệt rồi,
Tịch diệt là vui.
con còn nghi hoặc chỗ đó.
Tổ hỏi:
- Vì sao ông sanh nghi?
Đáp:
- Tất cả chúng sanh đều có hai thân, là sắc thân và pháp thân. Sắc thân vô thường có sanh có diệt, pháp thân hữu thường vô tri vô giác. Kinh nói “Sanh diệt diệt rồi, tịch diệt là vui” đó, chưa biết thân nào tịch diệt thân nào thọ vui ?
Nếu là sắc thân tịch diệt, khi sắc thân diệt thì tứ đại phân tán, tồn là khổ, khổ đâu thể nói vui. Nếu là pháp thân tịch diệt tức đồng với cỏ cây gạch đá, thì ai sẽ thọ lạc? Hơn nữa pháp tánh là thể của sanh diệt, ngũ uẩn là dụng của sanh diệt; năm dụng luôn sanh diệt trong nhất thể, sanh thì từ thể khởi dụng, diệt thì thâu dụng quy về thể. Nếu để mặc cho năm dụng sanh lại, tức là loài hữu tình không đoạn không diệt; nếu không cho năm dụng sanh lại thì mãi mãi quy về tịch diệt, tức là hữu tình đồng với vật vô tình.
Như vậy, tất cả các pháp đều bị niết bàn chế phục cấm chỉ, sanh còn không được thì có gì là vui đâu?
Tổ nói:
- Ông là Thích tử sao còn quen thói tà kiến đoạn thường của ngoại đạo mà nghị luận pháp tối thượng thừa? Cứ theo chỗ ông hiểu thì ngoài sắc thân riêng có pháp thân, lìa sanh diệt cầu nơi tịch diệt; lại suy luận niết bàn là thường vui, nói có thân thọ vui. Đó là chấp trước luyến tiếc sự sanh tử, tham đắm cái vui thế gian.
Nay ông phải biết, Phật vì tất cả những người mê nhận năm uẩn hòa hợp làm tướng thân của mình (ngã), họ phân biệt tất cả pháp là tướng trần bên ngoài, ưa sống ghét chết niệm niệm đổi dời, chẳng biết ngã pháp là mộng huyễn hư giả mới luống chịu luân hồi, đến nỗi Niết bàn thường vui lại cho là tướng khổ mà suốt ngày tìm cầu Niết bàn. Vì thế Phật thương mới chỉ cho cái vui thật của Niết bàn (chơn lạc): “Trong sát na không có tướng sanh, trong sát na không có tướng diệt, lại cũng không có sự sanh diệt nào để diệt. Đó là tịch diệt hiện tiền. Đương lúc tịch diệt hiện tiền, cũng không có sự nghĩ tưởng về hiện tiền mới gọi là thường vui (thường lạc)”. Cái vui đó không có người thọ cũng không có người chẳng thọ, há có tên gọi “một thể năm dụng”, huống chi còn nói Niết bàn chế phục cấm chỉ các pháp khiến cho mãi mãi không sanh. Đó là báng Phật hủy Pháp.
Nhữ thị Thích tử hà tập ngoại đạo đoạn thường tà kiến 。nhi nghị Tối Thượng Thừa pháp 。cứ nhữ sở giải 。tức sắc thân ngoại biệt hữu pháp thân 。li sinh diệt cầu ư tịch diệt 。hựu suy Niết bàn thường lạc 。ngôn hữu thân thụ giả 。tư nãi chấp lận sinh tử đam trước thế lạc 。nhữ kim đương tri 。Phật vi nhất thiết mê nhân nhận ngũ uẩn hòa hợp vi tự thể tướng 。phân biệt nhất thiết pháp vi ngoại trần tướng 。hảo sinh ác tử niệm niệm thiên lưu 。bất tri mộng ảo hư giả 。uổng thụ luân hồi, dĩ thường lạc Niết bàn phiên vi khổ tướng chung nhật trì cầu 。Phật mẫn thử cố nãi kì Niết bàn chân lạc 。sa na vô hữu sinh tướng 。sa na vô hữu diệt tướng 。canh vô sinh diệt khả diệt, thị tắc tịch diệt kiến tiền 。đương kiến tiền chi thời diệc vô kiến tiền chi lượng nãi vị thường lạc thử lạc vô hữu thụ giả diệc vô bất thụ giả khởi hữu nhất thể ngũ dụng chi danh hà huống canh ngôn Niết bàn cấm phục chư pháp linh vĩnh bất sinh tư nãi báng Phật huỷ Pháp.
汝是釋子何習外道斷常邪見, 而議最上乘法, 據汝所解, 即色身外別有法身,離生滅求於寂滅, 又推涅槃常樂, 言有身受者, 斯乃執吝生死耽著世樂, 汝今當知, 佛為一切迷人認五蘊和合為自體相, 分別一切法為外塵相, 好生惡死念念遷流, 不知夢幻虛假, 枉受輪迴, 以常樂涅槃翻為苦相終日馳求, 佛愍此故乃示涅槃真樂,剎那無有生相, 剎那無有滅相,更無生滅可滅, 是則寂滅見前, 當見前之時亦無見前之量乃謂常樂此 無有受者亦無不受者豈有一體五用之 何況更言涅槃禁伏諸法令永不生斯乃 謗佛毀法.
Hãy nghe ta nói kệ:
Vô thượng Đại Niết Bàn,
Viên minh thường tịch chiếu,
Phàm ngu vị chi tử,
Ngoại đạo chấp vi đoạn,
Chư cầu nhị thừa nhân,
Mục dĩ vô vi tác.
Tận thuộc tình sở kế,
Lục thập nhị kiến bổn,
Vọng lập hư giả danh,
Hà vi chơn thực nghĩa?
Duy hữu quá lượng nhân,
Thông đạt vô thủ xả,
Dĩ tri ngũ uẩn pháp,
Cập dĩ uẩn trung ngã,
Ngoại hiện chúng sắc tượng,
Nhất nhất âm thanh tướng,
Bình đẳng như mộng huyễn,
Bất khởi phàm thánh kiến,
Bất tác Niết bàn giải,
Nhị biên tam tế đoạn,
Thường ứng chư căn dụng,
Nhi bất khởi dụng tưởng,
Phân biệt nhất thiết pháp,
Bất khởi phân biệt tưởng.
Kiếp hỏa thiêu hải để,
Phong cổ sơn tướng kích,
Chơn thường tịch diệt lạc,
Niết bàn tướng như thị.
Ngô kim cưỡng ngôn thuyết,
Linh nhữ xả tà kiến,
Nhữ vật tùy ngôn giải,
Hứa nhữ tri thiểu phần.
無上大涅槃
圓明常寂照
凡愚謂之死
外道執為斷
諸求二乘人
目以無為作
盡屬情所計
六十二見本
妄立虛假名
何為真實義
唯有過量人
通達無取捨
以知五蘊法
及以蘊中我
外現眾色象
一一音聲相
平等如夢幻
不起凡聖見
不作涅槃解
二邊三際斷
常應諸根用
而不起用想
分別一切法
不起分別想
劫火燒海底
風鼓山相擊
真常寂滅樂
涅槃相如是
吾今彊言說
令汝捨邪見
汝勿隨言解
許汝知少分
Vô thượng Đại Niết Bàn,
Viên minh hằng tịch chiếu,
Phàm ngu gọi là chết,
Ngoại đạo chấp là đoạn,
Những người cầu nhị thừa,
Gọi đó tu vô vi.
Đều thuộc tình sở chấp,
Gốc sáu mươi hai kiến,
Vọng lập tên hư giả,
Sao là nghĩa chơn thật?
Chỉ có bậc Thánh nhân,
Thông đạt không thủ xả,
Vì biết pháp ngũ uẩn,
Và các pháp trong ta,
Ngoài hiện các hình sắc,
Mỗi mỗi tướng âm thanh,
Bình đẳng như mộng huyễn,
Không khởi thấy Phàm Thánh,
Không sanh hiểu Niết bàn,
Nhị biên tam tế đoạn,
Thường ứng dụng các căn,
Mà không khởi tưởng dụng,
Phân biệt tất cả pháp,
Không khởi tưởng phân biệt.
Kiếp lửa thiêu đáy biển,
Gió động kích tướng núi,
Vui tịch diệt chơn thường,
Tướng Niết bàn như thế.
Nay ta buộc phải nói,
Cho ông bỏ tà kiến,
Ông chớ theo lời nói,
May ra biết ít nhiều.
Sư nghe kệ hớn hở vui mừng, làm lễ rồi lui.