Bài 65.
(Tiếp theo)
Sư thuyết pháp lợi sanh trải qua bốn mươi năm. Ngày mùng 6 tháng bảy năm đó 712, Sư bảo các đệ tử đến chùa Quốc Ân ở Tân Châu, lo xây tháp Báo Ân và lại sai gia công đôn đốc.
Lại có vị tăng xứ Thục tên Phương Biện, đến yết kiến Sư, thưa:
- Chuyên đắp tượng.
Sư nghiêm sắc mặt, bảo:
- Đắp thử xem!
Phương Biện không lãnh hội yếu chỉ. Rồi đắp chơn tướng Sư, cao khoảng 7 tấc, đường nét rất tinh xảo. Sư nhìn Biện, nói:
- Ông khéo đắp tính chất, không khéo đắp tính Phật.
Sư lấy y vật đền đáp cho, tăng lễ tạ rồi đi.
Năm Tiên Thiên thứ hai 713, ngày mùng một tháng bảy, Sư báo môn nhân:
- Ta muốn về Tân Châu, các ông mau chuẩn bị thuyền chèo phương tiện.
Lúc đó, đại chúng thương mến xin Sư tạm ở lại. Sư nói:
- Chư Phật ra đời còn thị hiện niết bàn, có đến tất phải đi, lý ấy cũng thường nhiên. Hình hài ta đây về tất phải có chỗ.
Chúng thưa:
- Từ đây thầy đi, sớm muộn gì xin thầy cũng trở về.
Sư nói:
- Lá rụng về cội, không hẹn ngày về.
(Diệp lạc quy căn, lai thời vô nhật)
Lại hỏi:
- Chánh pháp nhãn tạng thầy truyền trao cho ai?
Sư đáp:
- Người có đạo thì được, người vô tâm thì thông.
Lại hỏi:
- Ngày sau có tai nạn gì chăng?
Sư đáp:
- Năm sáu năm sau khi ta nhập diệt, sẽ có một người đến lấy đầu ta. Hãy nghe ta nói sấm ký:
Đầu thượng dưỡng thân,
Khẩu lý tu xan.
Ngộ Mãn chi nạn,
Dương Liễu vi quan.
頭上養親
口裏須餐
遇滿之難
楊柳為官.
(Dốc lòng nuôi thân,
Miệng cần phải ăn.
Gặp nạn tên Mãn,
Dương, Liễu làm quan).
Sư lại nói:
- Ta tịch rồi, bảy mươi năm sau có hai vị Bồ tát từ phương Đông đến, một người tại gia một người xuất gia, đồng thời kiến lập tông ta giáo hóa hưng thạnh, sáng lập già lam, pháp tự đông đúc.
Nói xong Sư đi đến chùa Quốc Ân ở Tân Châu, tắm gội xong ngồi kiết già mà hóa. Khi ấy có mùi thơm xông người, cầu vồng trắng liên giao giáp đất, nhằm ngày mùng 3 tháng tám năm đó 713.
Bấy giờ hai quận Thiều Châu và Tân Châu đều tu tạo tháp linh, người đạo kẻ tục hai quận không quyết định được sẽ rước chơn thân Sư đi đâu. Thứ sử hai quận cùng thắp hương khấn vái:
- Khói nhang bay đi đâu thì ý Sư muốn về đó.
Khi đó hương trong lò bốc lên cao, bay thẳng đến Tào Khê. Chúng chọn ngày 13 tháng 11 rước chơn thân về Tào Khê nhập tháp. Sư thọ 76 tuổi. Bấy giờ Vi Cừ là thứ sử Thiều Châu soạn văn bia. Môn nhân nhớ lại lời sấm ký, có kẻ lấy đầu Sư, mới lấy lá sắt bọc vải sơn quấn chặt cổ Sư.
Trong tháp có tín y do Đạt ma truyền (loại vải co giãn sáng nhấp nháy, may từ bông cứng thêu hoa ở giữa mỗi phần, người sau dùng lụa bích lót trong), áo ma nạp bảo bát vua Trung Tông ban, chơn thân do Phương Biện đắp, đạo cụ … do thị giả chủ tháp chủ quản.
Năm Khai Nguyên thứ 10, ngày mùng 3 tháng tám năm nhâm tuất 722, nửa đêm bỗng nghe trong tháp như có tiếng kéo sắt. Tăng chúng sợ hãi thức dậy, thấy một người mặc đồ tang từ trong tháp chạy ra, rồi thấy cổ Sư có vết thương. Đem việc trộm tường trình đầy đủ lên châu huyện, huyện lệnh Dương Khản và thứ sử Liễu Vô Thiểm được đơn tố giác, cấp bách truy nã kẻ trộm.
Ngày mùng 5 tìm bắt được kẻ trộm ở thôn Thạch Giác, giải đến Thiều Châu tra hỏi. Khai rằng: Họ Trương tên Tịnh Mãn, người huyện Lương, Nhữ Châu, ở chùa Khai Nguyên Hồng Châu, y nhận 20.000 đồng của vị tăng nước Tân La tên Kim Đại Bi, mướn y lấy đầu Lục Tổ Đại sư đem về Hải Đông để cúng dường.
Liễu thái thú nghe lấy lời khai, chưa vội gia hình, bèn thân đến Tào Khê hỏi ý Linh Thao, cao đệ của
Sư, xem nên xử đoán thế nào? Thao nói: “Nếu luận theo phép nước mà nói thì đáng lý phải tru di. Nhưng Phật giáo từ bi, kẻ thù người thân đều bình đẳng, huống nữa kẻ kia cầu mong để cúng dường, nên tha tội vậy”. Liễu thái thú vui lòng, khen: “Thế mới hay cửa Phật thật rộng lớn”, rồi tha kẻ trộm.
Năm Thượng Nguyên nguyên niên 760, Đường Túc Tông sai sứ đến thỉnh y bát Sư về nội cung cúng dường. Đến năm Vĩnh Thái nguyên niên 765, ngày mùng 5 tháng 5 vua Đại Tông mộng thấy Lục Tổ Đại sư đến đòi y bát. Ngày mùng 7 vua lệnh thứ sử Dương Giam rằng:
“Trẫm mộng thấy thiền sư Huệ Năng đến, bảo đưa ca sa truyền pháp trở về Tào Khê. Nay trẫm nhờ Trấn quốc Đại tướng quân Lưu Sùng Cảnh kính cẩn đưa đi, trẫm xem đó là quốc bảo, các khanh nên an trí tại bổn tự đúng pháp tắc, đặc biệt lệnh tăng chúng có nhiệm vụ giữ gìn tông chỉ Sư phải bảo hộ nghiêm túc, chớ để cho thất lạc hư hỏng”.
Thế mà về sau có người lấy trộm y bát, nhưng mang đi không xa rồi cũng được lấy lại, bị mất như vậy đến bốn lần.
Vua Đường Hiến Tông ban thụy hiệu Đại Giám Thiền Sư, tháp tên Nguyên Hòa Linh Chiếu.
Những năm đầu Khai Bảo (968 – 975 – Tống Thái Tổ), quân triều đình (Bắc Tống) bình định vùng Nam Hải, nơi tàn binh của họ Lưu (Nhà Nam Hán) chống lại vào năm 971, tháp miếu thờ Sư nhiều lần bị nạn binh lửa tàn phá, nhưng chơn thân được tăng giữ tháp bảo hộ không hề hư hao, về sau có người sửa chữa lại mà chưa xong. Gặp lúc Tống Thái Tông tức vị, lưu tâm đến thiền môn, tháp có phần tráng lệ hơn.
Đại sư từ năm Đường Tiên Thiên thứ hai, nhằm năm Quý Sửu 713, nhập diệt đến nay, Cảnh Đức nguyên niên năm Giáp Thìn 1004, gồm khoảng 292 năm. Trừ phái Ấn Tông, số người đắc pháp là 33, mỗi vị giáo hóa một nơi, tiêu biểu cho việc kế thừa chánh thức, ngoài ra số người mai danh ẩn tích không thể ghi hết.