Bài 53.


PHÁP TỰ CỦA HÒA THƯỢNG DUY TẮC HANG PHẬT QUẬT, THIÊN THAI

1. THIỀN SƯ TRÍ 智禪師 CHÙA VÂN CƯ 雲居 NÚI THIÊN THAI 天台山.



Từng có lần Kế Tông (繼宗), vị tăng ở viện Hoa Nghiêm, hỏi:

_ Kiến tánh thành Phật, nghĩa đó như thế nào?

見性成佛其義云何 ?

Kiến tính thành Phật kì nghĩa vân hà ?


Sư đáp:

- Tánh thanh tịnh xưa nay trong suốt, không hề dao động, thể ấy chẳng thuộc có không, dơ sạch, dài ngắn, lấy bỏ … tự nó trùm khắp. Thấy rõ ràng như thế gọi là kiến tánh, tánh tức Phật Phật tức tánh, thế nên nói “Kiến tánh thành Phật”.

清淨之性本來湛 然無有動搖。不屬有無淨穢長短取捨 自 翛然。如是明見乃名見性。性即佛佛 性。故 云見性成佛。

Thanh tịnh chi tính bản lai đạm nhiên vô hữu động dao, bất thuộc hữu vô tịnh uế trường đoản thủ xả thể tự tiêu nhiên. như thị minh kiến nãi danh kiến tính, tính tức phật phật tức tính, cố vân kiến tính thành Phật.


Hỏi:
_ Tánh đã thanh tịnh chẳng thuộc có không, tại sao có thấy ?

性既清淨不屬有無因何有見 ?

Tính kí thanh tịnh bất thuộc hữu vô nhân hà hữu kiến ?


Sư đáp:

_ Thấy mà không có cái bị thấy.

見無所見

Kiến vô sở kiến.


Hỏi:

_ Không có cái bị thấy tại sao lại có (cái hay) thấy ?

無所見因何更有見 ?

Vô sở kiến nhân hà canh hữu kiến ?


Sư đáp:

_ Chỗ thấy cũng không.

見處亦無

Kiến xứ diệc vô


Hỏi:

_ Như thế, khi thấy chính ai thấy đó?

如是見時是誰之見 ?

Như thị kiến thời thị thùy chi kiến ?


Sư đáp:

_ Không có ai hay thấy.

無有能見者

Vô hữu năng kiến giả


Hỏi:

_ Rốt cục lý ấy ra sao?

究竟其理如何

Cứu cánh kì lí như hà ?


Sư bảo:

_ Ông biết chăng? Vọng kế (tính toán suy lường) cái có liền có, có năng có sở gọi là mê, nương theo cái thấy sanh ra hiểu biết liền rơi vào sanh tử. Người tỏ rõ cái thấy thì không như thế, suốt ngày thấy mà như chưa từng thấy, tìm hình thể tướng mạo của chỗ thấy không thể được, năng sở đều mất, gọi là kiến tánh.

汝知否。妄 計為有即有。能所乃得名迷。隨見生 便墮 生死。明見之人即不然。終日見未嘗 。求見 處體相不可得。能所俱絕。名為見性.

Nhữ tri phủ, vọng kế vi hữu tức hữu, năng sở nãi đắc danh mê, tùy kiến sinh giải tiện đoạ sinh tử, minh kiến chi nhân tức bất nhiên, chung nhật kiến vị thường kiến, cầu kiến xứ thể tướng bất khả đắc, năng sở câu tuyệt, danh vi kiến tính.


Hỏi:

_ Tánh đó biến khắp nơi, phải không?

此性 遍一切處否?

Thử tính biến nhất thiết xứ phủ ?


Sư đáp:

_ Không đâu chẳng khắp.

無處不遍

Vô xứ bất biến


Hỏi:

_ Phàm phu có đầy đủ tánh đó không?

凡夫具否?

Phàm phu cụ phủ ?


Sư đáp:

_ Trên nói "Không đâu chẳng khắp”. Há có bảo phàm phu chẳng đầy đủ ư !

上言無處不遍。豈凡夫而不具乎

Thượng ngôn vô xứ bất biến, khởi phàm phu nhi bất cụ hồ.


Hỏi:

_ Vì sao chư Phật Bồ Tát không bị việc sanh tử bó buộc, nhưng riêng phàm phu luẩn quẩn với cái khổ đó, có bao giờ họ biến khắp được đâu ?.

因何 諸佛菩薩不被生死所拘。而凡夫獨縈 苦。 何曾得遍。

Nhân hà chư Phật Bồ tát bất bí sinh tử sở câu, nhi phàm phu độc oanh thử khổ, hà tằng đắc biến ?.


Sư đáp:

_ Ở trong tánh thanh tịnh mà phàm phu khởi phân biệt, có năng sở liền rơi vào sanh tử. Chư Phật và bậc đại sĩ khéo biết trong tánh thanh tịnh, không phụ thuộc tướng có không thì năng sở chẳng lập.

凡夫於清淨性中, 計有能所 即墮生死, 諸佛大士善知清淨性中不屬有 無,即能所不立。

Phàm phu ư thanh tịnh tính trung, kế hữu năng sở tức đoạ sinh tử. Chư Phật đại sĩ thiện tri thanh tịnh tính trung bất thuộc hữu vô, tức năng sở bất lập.


Hỏi:

_ Nếu nói như thế tức có người liễu và người chẳng liễu?

若如是說, 即有了不了人?

Nhược như thị thuyết, tức hữu liễu bất liễu nhân.


Sư nói:

_ Liễu còn không thể được, há có người hay (năng) liễu ư !

了尚不可得。豈有能了人乎.

Liễu thượng bất khả đắc, khởi hữu năng liễu nhân hồ.


Hỏi:

_ Chí lý ra sao?

至理如 何 ?

Chí lí như hà ?


Sư nói:

_ Ta nói tóm tắt, ông nên nhớ rằng trong tánh thanh tịnh không có phàm thánh, cũng không có người liễu hay người chẳng liễu. Phàm và thánh cả hai đều là giả danh, nếu theo danh sanh hiểu biết thì rơi vào sanh tử, nếu biết là giả danh không thực thì không có cái gì tương xứng với tên gọi.

我以要言之。汝即應念。清淨性中無 有凡聖。亦無了人不了人。凡之與聖 俱是 名。若隨名生解即墮生死。若知假名 實。即 無有當名者.

Ngã dĩ yếu ngôn chi, nhữ tức ưng niệm, thanh tịnh tính trung vô hữu phàm thánh, diệc vô liễu nhân bất liễu nhân, phàm chi dữ thánh nhị câu thị danh, nhược tùy danh sinh giải tức đoạ sinh tử, nhược tri giả danh bất thật, tức vô hữu đương danh giả.


Sư lại nói:

_ Đó là chỗ tột cứu cánh. Nếu cho rằng ta hay liễu ngộ, người kia không thể liễu ngộ thì đó là bệnh nặng; thấy có sạch dơ phàm thánh cũng là bệnh nặng. Khởi kiến giải không có phàm thánh lại thuộc về bác bỏ, không có nhân quả (chấp đoạn). Thấy có tánh thanh tịnh để nương trụ cũng là bệnh nặng, khởi kiến giải không nương trụ cũng là bệnh nặng. Nhưng trong tánh thanh tịnh tuy không dao động mà đầy đủ những ứng dụng và phương tiện không hề hoại; cho đến hưng khởi tâm từ vận dụng tâm bi, chỗ vận dụng hưng khởi như thế chính là tánh thanh tịnh hoàn toàn, nên gọi là kiến tánh thành Phật.

此是極究竟處。若云我能 了彼不能了即是大病。見有淨穢凡聖 是 大病。作無凡聖解又屬撥無因果。見 清淨 性可棲止亦大病。作不棲止解亦大病 然清 淨性中雖無動搖。具不壞方便應用。 興慈 運悲。如是興運之處。即全清淨之性 可謂 見性成佛矣。

Thử thị cực cứu cánh xứ, nhược vân ngã năng liễu bỉ bất năng liễu tức thị đại bệnh, kiến hữu tịnh uế phàm thánh diệc thị đại bệnh; tác vô phàm thánh giải hựu thuộc bát vô nhân quả, kiến hữu thanh tịnh tính khả thê chỉ diệc đại bệnh, tác bất thê chỉ giải diệc đại bệnh, nhiên thanh tịnh tính trung tuy vô động dao, cụ bất hoại phương tiện ứng dụng, cập hưng từ vận bi, như thị hưng vận chi xứ, tức toàn thanh tịnh chi tính, khả vị kiến tính thành Phật hĩ .


Kế Tông vui mừng nhảy nhót, lễ tạ rồi lui.