DIỄN ĐÀN PHẬT PHÁP THỰC HÀNH - Powered by vBulletin




Cùng nhau tu học Phật pháp - Hành trình Chân lý !            Hướng chúng sinh đi, hướng chúng sinh đi, để làm Phật sự không đối đãi.


Tánh Chúng sinh cùng Phật Quốc chỉ một,
Tướng Bồ Đề hóa Liên hoa muôn vạn.

Trang 1/2 12 CuốiCuối
Hiện kết quả từ 1 tới 10 của 16
  1. #1
    NỤ Avatar của lavinhcuong
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    410
    Thanks
    302
    Thanked 508 Times in 134 Posts

    Trích đăng Truỳên Đăng Lục _ quyển 3

    Trích đăng Truỳên Đăng Lục _ quyển 3





    Bài 35.

    Tổ Bồ-Đề-Đạt-Ma (Bodhidharma) 菩提達磨


    Ngài là vị Tổ thứ 28 bên Ấn độ (đầu thế kỷ thứ mười một) sau Phật Niết-bàn, cũng là vị Tổ thứ nhất ở Trung-Hoa.

    Ngài dòng Sát-Đế-Lợi ở Nam-Ấn, cha là Hương-Chí vua nước nầy. Vua Hương-Chí sanh được ba người con trai, Ngài là Vương-tử thứ ba. Thưở nhỏ, Ngài đã có chí siêu việt và đặc tài hùng biện. Nhơn vua Hương-Chí thỉnh Tổ Bát-Nhã-Đa-La vào cung cúng dường, Ngài mới có duyên gặp Tổ. Qua cuộc nghiệm vấn về hạt châu, Tổ đã biết Ngài là người siêu quần bạt tục sẽ kế thừa Tổ vị. Sau khi vua cha băng, Ngài quyết chí xuất gia cầu xin Tổ Bát-Nhã độ làm đệ tử, Tổ hoan hỷ làm lễ thế phát và truyền giới cụ túc.

    Tổ bảo Ngài: -Hoàng-tử đối các pháp đã được thông suốt, nay nên đổi hiệu là Bồ-Đề-Đạt-Ma.

    Từ đây, Ngài luôn hầu hạ bên thầy. Một hôm, Tổ gọi Ngài đến truyền pháp và dặn dò: -Ngươi tạm giáo hóa ở nước nầy, sau sang Trung-Hoa mới thật là nhơn duyên lớn. Song, đợi ta diệt độ, sáu mươi bảy năm sau sẽ đi. Nếu ngươi đi sớm, sau e có việc không tốt.

    Những điều kiết hung về sự giáo hóa ở Trung-Hoa sau nầy, Ngài đều cầu xin Tổ chỉ dạy.Tổ dùng những lời sấm ký tiên đoán sự kiết hung vận số Phật pháp ở Trung-Hoa, nói có hơn mười bài kệ.

    Tổ tịch rồi, Ngài vẫn ở tại nước nhà giáo hóa. Người huynh đệ đồng sư với Ngài là Phật-Đại-Tiên cùng chung sức giáo hóa. Thời nhơn gọi hai Ngài là "Hai cửa cam lồ". Song, sau môn đồ của Phật-Đại-Tiên lại chia làm sáu tông:

    1.-Hữu tướng, 2.-Vô tướng, 3.- Định huệ, 4.-Giới hạnh, 5.-Vô đắc, 6.-Tịch tịnh, đua nhau truyền bá. Ngài thấy sự chia ly ấy, ngại cho chánh pháp suy vi. Vì thế, Ngài dùng phương tiện cảm hóa họ hồi đầu quay về chánh pháp.

    Vua Nguyệt-Tịnh băng, con vua là Thái-tử Dị-Kiến nối ngôi. Dị-Kiến lên ngôi không bao lâu lại tin theo tà thuyết bài bác Phật giáo. Ngài sai đệ tử là Ba-La-Đề đến cung vua để nhiếp hóa. Sau khi cải tà quy chánh, vua Dị-Kiến hỏi ra mới biết Ba-La-Đề là đệ tử của chú mình. Nhà vua cho người thỉnh Ngài về cung giáo hóa. Về cung giáo hóa một thời gian, Ngài thấy cơ duyên sang Trung-Hoa đã đến, bèn đem lời huyền ký của Tổ Bát-Nhã-Đa-La thuật lại cho vua biết. Vua không còn lời gì dám ngăn cản, đành sắm một chiếc thuyền buôn, cho thủy thủ đưa Ngài sang Trung-Hoa. Vua và quần thần tiển đưa Ngài ra tới cửa biển.

    Ngài ở trên thuyền gần ngót ba năm, thuyền mới cặp bến Quảng-Châu, nhằm đời nhà Lương niên hiệu Phổ-Thông năm đầu (520 sau T.C.), ngày 21 tháng 9 năm Canh-Tý. Thích-sử tỉnh nầy ra đón tiếp Ngài, đồng thời dâng sớ về triều tâu vua Lương-Võ-Đế. Vua được sớ, liền sai sứ lãnh chiếu chỉ đến thỉnh Ngài về Kim-Lăng (Kinh đô nhà Lương).

    Vua Võ-Đế hỏi: -Trẩm từ lên ngôi đến nay thường cất chùa, chép kinh, độ Tăng ni, không biết bao nhiêu, vậy có công đức gì chăng ?

    Ngài đáp: -Đều không có công đức.

    -Tại sao không có công đức ?

    -Bởi vì những việc ấy là nhơn hữu lậu, chỉ có quả báo nhỏ ở cõi người cõi trời, như bóng theo hình, tuy có mà chẳng phải thật. (*)

    -Thế nào là công đức chơn thật ?

    –Trí thanh tịnh tròn mầu, thể tự không lặng, công đức như thế chẳng do thế gian mà cầu.

    -Thế nào là thánh đế nghĩa thứ nhất ?

    -Rỗng rang không thánh.

    -Đối diện với trẩm là ai ?

    –Không biết !

    Vua Lương-Võ-Đế không lãnh ngộ được, lui về nghỉ. Ngài biết căn cơ chẳng hợp, tạm lưu lại đây ít hôm.

    Đến ngày 19, Ngài bỏ vua Lương, lén sang sông qua Giang-Bắc. Ngài nhập cảnh nước Ngụy đi đến Lạc-Dương nhằm đời Hậu-Ngụy, vua Hiếu-Minh-Đế niên hiệu Chánh-Quang năm đầu (520 sau T.C.) ngày 23 tháng 11.

    Ngài dừng trụ tại chùa Thiếu-Lâm ở Trung-Sơn, trọn ngày ngồi xây mặt vào vách im lặng. Tăng chúng đều không hiểu được. Người đời gọi Ngài là "Thầy Bà-la-môn ngồi nhìn vách" (Bích quán Bà-la-môn). Có vị Tăng tên Thần-Quang học thông các sách, giỏi lý diệu huyền, nghe danh Ngài tìm đến yết kiến. Thần-Quang đã đủ lễ nghi mà Ngài vẫn ngồi lặng yên ngó mặt vào vách không màng đến. Quang nghĩ: "Người xưa cầu đạo chẳng tiếc thân mạng, nay ta chưa được một trong muôn phần của các Ngài". Hôm ấy, nhằm tiết mùa đông (mùng 9 tháng chạp), ban đêm tuyết rơi lả tả, Thần-Quang vẫn đứng yên ngoài tuyết chấp tay hướng về Ngài. Đến sáng tuyết ngập lên khỏi đầu gối, mà gương mặt Thần-Quang vẫn thản nhiên. Ngài thấy thế thương tình, xây ra hỏi:

    -Ngươi đứng suốt đêm trong tuyết, ý muốn cầu việc gì ?

    Thần-Quang thưa: -Cúi mong Hòa-thượng từ bi mở cửa cam lồ, rộng độ chúng con.

    -Diệu đạo vô thượng của chư Phật, dù nhiều kiếp tinh tấn, hay làm được việc khó làm, hay nhẫn được việc khó nhẫn, còn không thể đến thay ! Huống là, dùng chút công lao nhỏ nầy mà cầu được pháp chân thừa ?

    Thần-Quang nghe vậy bèn lén lấy đao chặt cánh tay trái để trước Ngài để tỏ lòng thiết tha cầu đạo. Ngài biết đây là pháp khí bèn dạy:

    -Chư Phật lúc ban đầu cầu đạo, vì pháp quên thân, nay ngươi chặt cánh tay để trước ta, tâm cầu đạo như vậy cũng khá.

    –Pháp ấn của chư Phật con có thể được nghe chăng ?

    –Pháp ấn của chư Phật không phải từ người khác mà được.

    –Tâm con chưa an, xin thầy dạy pháp an tâm.

    –Ngươi đem tâm ra đây, ta an cho.

    –Con tìm tâm không thể được.

    –Thế là ta đã an tâm cho ngươi rồi.

    Thần-Quang nhơn đây được khế ngộ. Ngài liền đổi tên Thần-Quang là Huệ-Khả.


    NAM MÔ ĐẠI TUỆ VĂN THÙ SƯ LỢI BỒ TÁT

  2. Chủ đề tương tự

    1. Trích đăng Truỳên Đăng Lục _ quyển 2
      Gửi bởi lavinhcuong trong mục THIỀN TÔNG
      Trả lời: 25
      Bài cuối: 06-20-2015, 08:33 AM
    2. Trích đăng Truỳên Đăng Lục
      Gửi bởi lavinhcuong trong mục THIỀN TÔNG
      Trả lời: 42
      Bài cuối: 06-18-2015, 09:49 AM
    3. Truyền đăng lục ~ Hoạt hình Phật giáo
      Gửi bởi minhquang trong mục Video liên quan Phật giáo
      Trả lời: 0
      Bài cuối: 06-17-2015, 10:03 PM
  3. #2
    NỤ Avatar của lavinhcuong
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    410
    Thanks
    302
    Thanked 508 Times in 134 Posts
    Từ đây kẻ Tăng người tục đua nhau đến yết kiến Ngài, tiếng tăm vang dậy. Vua Hiếu-Minh-Đế nước Ngụy sai sứ ba phen thỉnh Ngài, Ngài đều từ chối. Nhà vua càng kính trọng, sai sứ đem lễ vật đến cúng dường: một cây tích trượng, hai y kim tuyến, bình bát, v.v…Ngài từ khước nhiều lần, nhưng nhà vua cố quyết cúng dường, rốt cuộc Ngài phải nhận.

    Mở cửa phương tiện, Ngài có dùng bốn hạnh để giáo hóa môn đồ: 1.-Báo oán hạnh, 2.-Tùy duyên hạnh, 3.-Vô sở cầu hạnh, 4.-Xứng pháp hạnh.

    Ở Trung-Hoa gần chín năm, Ngài thấy cơ duyên đã đến, liền gọi đồ chúng dạy:

    -Giờ ta trở về sắp đến. Các ngươi mỗi người nên nói chỗ sở đắc của mình.

    Đạo-Phó ra thưa: -Theo chỗ thấy của con, chẳng chấp văn tự, chẳng lìa văn tự, đây là dụng của đạo.

    Ngài bảo: -Ngươi được phần da của ta.

    Bà ni Tổng-Trì ra thưa: -Nay chỗ hiểu của con, như Tổ A-Nan thấy nước Phật A-Súc, chỉ thấy một lần, không còn thấy lại.

    Ngài bảo: -Ngươi được phần thịt của ta.

    Đạo-Dục ra thưa: -Bốn đại vốn không, năm ấm chẳng có, chỗ thấy của con không một pháp có thể được.

    Ngài bảo: -Ngươi được phần xương của ta.

    Đến Huệ-Khả bước ra đảnh lễ Ngài, rồi lui lại đứng yên lặng.

    Ngài bảo: -Ngươi được phần tủy của ta.

    Ngài gọi Huệ-Khả đến dặn dò: -Xưa Như-Lai đem đại pháp nhãn tạng trao cho Tổ Ca-Diếp, lần lượt truyền đến ta. Nay ta đem trao lại cho ngươi, ngươi phải truyền trao không để dứt mất. Cùng trao cho ngươi y Tăng-già-lê và bát báu, để làm pháp tín. Mỗi thứ tiêu biểu cho mỗi việc, ngươi nên biết.

    Huệ-Khả thưa: -Xin thầy từ bi chỉ dạy mọi việc.

    Ngài dạy: -Trong truyền tâm-ấn để khế hợp chổ tâm chứng, ngoài trao cà-sa để định tông chỉ. Đời sau có nhiều người cạnh tranh nghi ngờ, họ nói "Ta là người Ấn, ngươi là người Hoa, căn cứ vào đâu mà được pháp, lấy cái gì để minh chứng ?". Ngươi gìn giữ pháp y nầy, nếu gặp tai nạn, ngươi đem ra làm biểu tín, thì sự giáo hóa không bị trở ngại. Hai trăm năm sau khi ta diệt độ, y bát nầy dừng lại không truyền, vì lúc đó, Phật pháp rất thạnh hành, Chính khi ấy, người biết đạo thật nhiều, người hành đạo quá ít, người nói lý thì nhiều, người ngộ lý thì ít. Tuy nhiên, người thầm thông lặng chứng có hơn ngàn vạn. Ngươi gắng xiển dương, chớ khinh người chưa ngộ. Nghe ta nói kệ:

    Ngô bổn lai tư độ,
    Truyền pháp cứu mê tình,
    Nhất hoa khai ngũ diệp,
    Kết quả tự nhiên thành.
    (**)

    (Ta sang đến cõi nầy,
    Truyền pháp cứu mê tình,
    Một hoa nở năm cánh,
    Nụ trái tự nhiên thành).


    Ngài lại bảo: -Ta có bộ kinh Lăng-già bốn quyển, là Phật nói tột pháp yếu, cũng giúp cho chúng sanh mở, bày, ngộ, nhập kho tri kiến Phật, nay ta trao luôn cho ngươi. Ta từ Nam-Ân sang đây đã năm phen bị thuốc độc mà không chết, vì thấy xứ nầy tuy có khí đại-thừa mà chưa ứng hợp, nên ta lặng lẽ ngồi lâu chờ đợi. Nay đã truyền xong, đã có thủy ắt phải có chung vậy.

    Xong rồi, Ngài cùng đồ chúng đi đến Võ-môn ở chùa Thiên-Thánh dừng lại ba hôm. Quan thái thú thành nầy tên Dương-Huyễn-Chi là người sùng mộ Phật pháp. Nghe tin Ngài đến, liền tới đảnh lễ.

    Ông hỏi: -Thầy ở Ấn-Độ được kế thừa làm Tổ, vậy thế nào là Tổ, xin thầy dạy cho ?

    Ngài đáp: -Rõ được tâm tông của Phật, không lầm một mảy, hạnh và giải hợp nhau, gọi đó là Tổ.

    -Chỉ một nghĩa nầy hay còn nghĩa nào khác ?

    -Cần rõ tâm người, biết rành xưa nay, chẳng chán có không, cũng chẳng cố chấp, chẳng hiền chẳng ngu, không mê không ngộ. Nếu hay hiểu như thế, cũng gọi là Tổ.

    Huyễn-Chi lại thưa: -Đệ tử vì bị nghiệp thế tục, ít gặp được tri thức, trí nhỏ bị che lấp không thể thấy đạo. Cúi xin thầy chỉ dạy, con phải noi theo đạo quả nào ? dùng tâm gì được gần với Phật, Tổ ?

    Ngài vì ông nói kệ:

    Diệc bất đổ ác nhi sanh hiềm,
    Diệc bất quán thiện nhi cần thố,
    Diệc bất xả trí nhi cận ngu,
    Diệc bất phao mê nhi tựu ngộ.

    Đạt đại đạo hề quá lượng,
    Thông Phật tâm hề xuất độ,
    Bất dữ phàm thánh đồng triền,
    Siêu nhiên danh chi viết Tổ.
    (***)

    (Cũng đừng thấy dữ mà sanh chê,
    Cũng đừng thấy lành mà ái mộ,
    Cũng đừng bỏ trí mà gần ngu,
    Cũng đừng ném mê mà về ngộ.

    Đạt đạo lớn chừ quá lượng,
    Thông Phật tâm chừ vô kể,
    Chẳng cùng phàm thánh đồng vai,
    Vượt lên, gọi đó là Tổ).


    Huyễn-Chi nghe dạy hoan hỷ đảnh lễ, lại thưa: -Xin thầy chớ vội tạ thế, để làm phước lợi cho quần sanh.

    Ngài bảo: -Đời mạt pháp, kẻ tệ ác quá nhiều, dù ta còn ở lâu e chẳng lợi ích, mà thêm tai nạn, làm tăng trưởng tội ác cho người.

    -Từ thầy đến đây ai thường hại thầy, xin thầy chỉ họ, con sẽ sắp xếp.

    –Nói ra ắt có tổn hại, ta nên đi vậy. Đâu cam hại người để mình được vui.

    Huyễn-Chi nài nỉ thưa: -Con không hại người, chỉ muốn biết đó thôi. Ngài bất đắc dĩ nói bài kệ:

    Giang tra phân ngọc lãng,
    Quản cự khai kim tỏa,
    Ngũ khẩu tương cộng hành,
    Cửu thập vô bỉ ngã.


    (Thuyền con rẽ sóng ngọc,
    Đuốc soi mở khóa vàng,
    Năm miệng đồng cùng đi,
    Chín, mười không ta người).


    Huyễn-Chi nghe rồi ghi nhớ, đảnh lễ Ngài lui ra. Ở đây đúng ba hôm, Ngài ngồi an nhiên thị tịch.

    Hôm ấy là ngày mùng 9 tháng 10 năm Bính-Thìn, nhằm niên hiệu Đại-Thông năm thứ hai nhà Lương (529 T.C). Đến ngày 18 tháng chạp năm nầy, làm lễ đưa nhục thân của Ngài nhập tháp tại chùa Định-Lâm, núi Hùng-Nhĩ.

    Sau, vua Hậu Ngụy sai Tống-Vân đi sứ Ấn-Độ về, gặp Ngài tại núi Thông-Lãnh, thấy Ngài tay xách một chiếc dép, một mình đi nhanh như bay.

    Tống-Vân hỏi: -Thầy đi đâu ?

    Ngài đáp: Về Ấn-Độ.

    Ngài lại nói thêm: -Chủ ông đã chán đời rồi.

    Tống-Vân ngẩn ngơ, từ giả Ngài về triều. Đến triều thì vua Minh-Đế đã băng. Hiếu-Trang-Đế lên ngôi. Ông đem việc ấy tâu lại, vua ra lệnh mở cửa tháp dở quan tài ra, quả nhiên là quan tài không, chỉ còn một chiếc dép. Vua sắc đưa chiếc dép về thờ ở chùa Thiếu-Lâm, Đến đời Đường niên hiệu Khai-Nguyên năm thứ 15 (728 sau T.C) môn đồ lại dời chiếc dép về thờ ở Chùa Hoa-Nghiêm. Vua phong Ngài hiệu Viên-Giác Thiền-Sư, tháp hiệu Không-Quán.

    (Tương truyền tập Thiếu-Thất-Lục-Môn là tác phẩm của Ngài) .

    ---------------------

    Phụ chú :

    (*)

    thử đãn nhân thiên tiểu quả hữu lậu chi nhân, như ảnh tùy hình, tuy hữu phi thật.


    (**)


    吾本來茲土  
    傳法救迷情
    一華開五葉  
    結果自然成



    (***)

    亦不覩惡而生嫌  
    亦不觀善而勤措
    亦不捨智而近愚  
    亦不拋迷而就悟

    達大道兮過量  
    通佛心兮出度
    不與凡聖同躔  
    超然名之曰祖



    (****)

    江槎分玉浪
    管炬開金鎖
    五口相共行
    九十無彼我.

    NAM MÔ ĐẠI TUỆ VĂN THÙ SƯ LỢI BỒ TÁT

  4. The Following User Says Thank You to lavinhcuong For This Useful Post:

    hoatihon (06-21-2015)

  5. #3
    Ban Điều Hành Avatar của hoatihon
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.150
    Thanks
    1.129
    Thanked 1.675 Times in 683 Posts


    Bất dữ phàm Thánh đồng triền







    Bọt vỡ tan rồi!, Mộng dở dang ...

  6. #4
    NỤ Avatar của lavinhcuong
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    410
    Thanks
    302
    Thanked 508 Times in 134 Posts


    Bài 37.

    Tăng-Xán Đại sư _ 497 (?) –> 602 T.L. _ 僧璨大師


    Ngài là vị Tổ thứ 30 của Phật Giáo và là Tổ thứ 3 của Thiền Tông Trung Hoa.

    Không ai biết quê quán và gốc gác Sư thế nào, chỉ biết Sư với hình thức cư sĩ mắc bệnh ghẻ lở đến lễ Tổ Huệ-Khả xin sám tội, nhơn đó được ngộ đạo, được Tổ cho thọ giới cụ túc tại Chùa Quang-Phước, nhằm niên hiệu Thiên-Bình thứ hai (536 T.L) nhà Bắc-Tề ngày 18 tháng 3. Sư theo hầu hạ Tổ được hai năm. Tổ truyền kệ và y bát bảo phải đi phương xa ẩn tránh kẻo có nạn. Sư đến ở ẩn nơi núi Hoàn-Công thuộc Thư-Châu.

    Đời Châu-Võ-Đế ra lệnh diệt Phật pháp (561 T.L). Sư sang ở núi Tư-Không huyện Thái-Hồ. Sư thường đổi dời ít khi ở lâu một chỗ, nên hơn mười năm mà không ai biết tông tích. Thời gian Sư ở núi Tư-Không có một vị sư người Ấn tên Tỳ-Ni-Đa-Lưu-Chi sang Trung Hoa cầu pháp. Gặp sư, Lưu-Chi hết lòng kính mộ xin làm đệ tử. Sư truyền tâm ấn cho và khuyên qua phương Nam tiếp độ chúng sinh.

    Đời nhà Tùy khoảng niên hiệu Khai-Hoàng có ông Sa-di hiệu Đạo-Tín được 14 tuổi đến lễ Sư thưa:

    _ Xin Hòa-Thượng từ bi ban cho con pháp môn giải thoát.

    Sư hỏi: -Ai trói buộc ngươi ?

    _ Không ai trói buộc.

    _ Đã không trói buộc, đâu cần cầu giải thoát.

    Đạo-Tín nghe liền đại ngộ. Từ đây, Đạo-Tín theo hầu hạ Sư suốt chín năm. Sau Đạo-Tín đến Kiết-Châu thọ giới, rồi trở lại hầu thầy rất cần mẫn. Sư thường dùng lý huyền diệu gạn hỏi, biết Đạo-Tín cơ duyên đã thuần thục, bèn truyền y pháp cho ông.

    Sư bảo: -Đại pháp nhãn tạng của Như-Lai, nay ta trao lại cho ngươi cùng với y bát. Ngươi gắng mà gìn giữ. Nghe ta nói kệ:

    Hoa chủng tuy nhơn địa,
    Tùng địa chủng hoa sanh,
    Nhược vô nhơn hạ chủng,
    Hoa địa tận vô sanh.
    (*)

    (Giống hoa tuy nhơn đất,
    Từ đất giống hoa sanh,
    Nếu không người gieo giống,
    Hoa, đất trọn không sanh).


    Sư dạy tiếp: -Xưa Tổ Huệ-Khả trao pháp cho ta rồi, Ngài đến xứ Nghiệp-Đô hoằng hóa hơn ba chục năm mới thị tịch. Nay đã có người thừa kế cho ta thì việc của ta đã xong, còn mắc ở đây làm gì ! Sư đến núi La-Phù ngao du hai năm. Sư lại trở về Châu-Thư, ngụ tại chùa Sơn-Cốc. Dân chúng ở đây nghe Sư đến đều vui mừng tấp nập kéo đến thừa sự cúng dường. Sư đăng tòa thuyết pháp cho tứ chúng nghe. Thuyết xong, Sư đứng ngay thẳng dưới cây đại thọ chấp tay thị tịch.

    Nhằm ngày rằm tháng 10 năm Bính-Dần, niên hiệu Đại-Nghiệp thứ hai (602 T.L) nhà Tùy. Sư có trước tác bài "Tín tâm minh" là một tác phẩm trọng yếu của Thiền tông hiện còn lưu hành. Vua Huyền-Tông đời Đường truy phong hiệu là Giám Trí thiền sư.

    Phụ chú :

    (*)


    華種雖因地  
    從地種華生
    若無人下種  
    華地盡無生


    NAM MÔ ĐẠI TUỆ VĂN THÙ SƯ LỢI BỒ TÁT

  7. #5
    NỤ Avatar của lavinhcuong
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    410
    Thanks
    302
    Thanked 508 Times in 134 Posts


    Bài 38.

    Đạo-Tín Đại sư ( 580 – 651 T.L. ) 道信大師


    Ngài là vị Tổ thứ tư Trung-Hoa _ thứ 31 Tây thiên.

    Sư họ Tư-Mã, tổ tiên quê ở Hà-Nội, thân phụ Sư dời về Kỳ-Châu huyện Quảng-Tế, mới sanh Sư. Sư xuất gia khi còn để chóp. Tuy tuổi ấu thơ, mà Sư có ý chí siêu việt, ngưỡng mộ Không tông và các môn giải thoát.

    Năm 14 tuổi là một Sa-di, Sư gặp Tổ Tăng-Xán cầu xin pháp môn giải thoát, được Tổ khai ngộ cho. Sư theo hầu Tổ suốt chín năm, mới được truyền pháp. Sau khi được pháp, Sư một bề tinh tấn trọn ngày đêm không nằm. Niên hiệu Đại-Nghiệp thứ 13 (613 T.L.) đời Tùy, Sư thống lãnh đồ chúng sang Kiết-Châu. Đến đây bị bọn giặc Tào-Võ-Vệ vây thành suốt bảy tuần. Dân chúng trong thành kinh hoàng. Sư dạy họ chí tâm niệm "Ma-ha-bát-nhã". Toàn dân trong thành đều thành kính tụng niệm. Quả nhiên bọn giặc nhìn trên thành có thần binh trùng điệp, chúng sợ hãi rút quân.

    Niên hiệu Võ-Đức thứ hai (619 T.L.) đời Đường, Sư sang đất Loa-Xuyên. Ở đây, Sư giáo hóa ngót bảy năm. Sau Sư trở về an trụ tại Kỳ-Xuân trên núi Phá-Đầu. Ở đây, Tăng chúng bốn phương đua nhau tìm đến tham vấn rất đông.

    Đời Đường niên hiệu Trịnh-Quán thứ tư (630 T.L.) Sư đang ở trên núi Phá-Đầu nhìn xem khí tượng, biết trên núi Ngưu-Đầu có bậc dị nhơn. Sư đích thân tìm đến núi nầy, vào Chùa U-Thê hỏi thăm những vị tăng rằng: -Ở đây có đạo nhơn chăng ? Có vị tăng đáp: -Phàm là người xuất gia ai chẳng phải đạo nhơn ? Sư hỏi: -Cái gì là đạo nhơn ? Tăng im lặng không đáp được. Có vị tăng khác thưa: -Cách đây chừng mười dặm bên kia núi,có một vị sư tên Pháp-Dung, lười biếng đến thấy người chẳng đứng dậy chào, cũng không chấp tay, phải là đạo nhơn chăng ?

    Sư liền trèo núi tìm đến thấy Pháp-Dung đang ngồi thiền trên tảng đá, dường như chẳng để ý đến ai.

    Sư hỏi: -Ở đây làm gì ?

    Pháp-Dung đáp: -Quán tâm.

    -Quán là người nào, tâm là vật gì ?

    Pháp-Dung không đáp được, bèn đứng dậy làm lễ thưa: -Đại đức an trụ nơi nào?

    Sư đáp: -Bần tăng không có chỗ ở nhất định, hoặc Đông hoặc Tây.

    –Ngài biết thiền sư Đạo-Tín chăng ?

    –Vì sao hỏi ông ấy ?

    _ Vì nghe danh đức đã lâu, khao khát muốn đến lễ yết.

    _ Thiền sư Đạo-Tín là bần đạo đây.

    _ Vì sao Ngài quan lâm đến đây ?

    _ Vì tìm đến thăm hỏi ngươi, lại có chỗ nào nghỉ ngơi chăng ?

    Pháp-Dung chỉ phía sau, thưa: -Riêng có cái am nhỏ.

    Pháp-Dung liền dẫn Sư về am. Chung quanh am toàn loài cọp sói nằm đứng lăng xăng, Sư giơ hai tay lên làm thế sợ.

    Pháp-Dung hỏi: -Ngài vẫn còn cái đó sao ?

    Sư hỏi: -Cái đó là cái gì ?

    Pháp-Dung không đáp được. Giây lát, Sư lại tấm đá của Pháp-Dung ngồi vẽ một chữ PHẬT, Pháp-Dung nhìn thấy giật mình.

    Sư bảo: -Vẫn còn cái đó sao ?

    Pháp-Dung không hiểu, bèn đảnh lễ cầu xin Sư chỉ dạy chỗ chân yếu.

    Sư bảo: -Phàm trăm ngàn pháp môn đồng về một tất vuông. Diệu đức như hà-sa thảy ở nơi nguồn tâm. Tất cả môn giới, định, huệ, thần thông biến hóa, thảy đều đầy đủ nơi tâm ngươi. Tất cả phiền não xưa nay đều không lặng. Tất cả nhơn quả đều như mộng huyễn, không có tam giới có thể ra, không có bồ-đề có thể cầu. Người cùng phi nhơn tánh tướng bình đẳng. Đại đạo thênh thang rộng lớn bặt suy dứt nghĩ. Pháp như thế, nay ngươi đã được không thiếu khuyết, cùng Phật không khác, lại không có pháp gì lạ. Chỉ tâm ngươi tự tại, chớ khởi quán hạnh, cũng chớ lóng tâm, chớ khởi tham sân, chớ ôm lòng lo buồn, rỗng rang không ngại, mặc tình tung hoành, chẳng làm các việc thiện, chẳng làm các việc ác, đi đứng ngồi nằm, mắt thấy gặp duyên thảy đều là diệu dụng của Phật. Vì vui vẻ không lo buồn nên gọi là Phật.

    Pháp-Dung thưa: -Tâm đã đầy đủ, cái gì là Phật ? cái gì là tâm ?

    Sư đáp: -Chẳng phải tâm thì không hỏi Phật, hỏi Phật thì chính là tâm.

    Pháp-Dung thưa: -Đã không khởi quán hạnh, khi gặp cảnh khởi tâm làm sao đối trị ?

    Sư đáp: -Cảnh duyên không có tốt xấu, tốt xấu khởi nơi tâm, nếu tâm chẳng theo danh (tên),vọng tình từ đâu khởi ? Vọng tình đã chẳng khởi, chơn tâm mặc tình biết khắp. Ngươi chỉ tùy tâm tự tại, chẳng cầu đối trị, tức gọi là pháp thân thường trụ, không có đổi thay. Ta thọ pháp môn đốn giáo của Tổ Tăng-Xán, nay trao lại cho ngươi. Nay ngươi nhận kỹ lời ta, chỉ ở núi nầy về sau có năm vị đạt nhơn đến nối tiếp giáo hóa.

    Một hôm Sư đến huyện Huỳnh-Mai, giữa đường gặp một đứa bé dáng vẻ khôi ngô, độ chừng bảy tuổi. Sư để ý quan sát đứa bé, rồi hỏi: -Ngươi họ gì ?

    Đứa bé đáp: -Họ thì có, mà không phải họ thường.

    _ Là họ gì ?

    _ Là họ Phật !

    _ Ngươi không họ à ?

    _ Vì họ ấy là không.

    Sư nhìn những người thị tùng bảo: -Đứa bé nầy không phải hạng phàm, sau nầy sẽ làm Phật pháp hưng thịnh.

    Sư cùng thị tùng tìm đến nhà đứa bé, thuật những lời đối đáp lạ thường của nó và xin mẹ cho nó xuất gia. Mẹ đứa bé đồng ý cho nó xuất gia. Thế là, Sư nhận đứa bé làm đệ tử xuất gia, đặt pháp danh là Hoằng-Nhẫn(*).

    Một hôm Sư gọi Hoằng-Nhẫn đến bảo: -Xưa Như-Lai truyền chánh pháp nhãn tạng chuyển đến đời ta, nay ta trao lại cho ngươi cùng với y bát. Ngươi đều giữ gìn, cố gắng truyền trao không cho dứt bặt. Nghe ta nói kệ:

    Hoa chủng hữu sanh tánh,
    Nhơn địa hoa sanh sanh,
    Đại duyên dữ tín hiệp,
    Đương sanh sanh bất sanh.
    (**)

    (Giống hoa có tánh sống,
    Nhơn đất hoa nảy mầm,
    Duyên lớn cùng tín hợp,
    Chính sanh, sanh chẳng sanh).


    Sư lại bảo Hoằng-Nhẫn: -Trước trong thời Võ-Đức ta có viếng Lô-Sơn, lên tột trên đảnh nhìn về núi Phá-Đầu thấy một vầng mây màu tía giống như cái lộng, dưới phát ra lằn hơi trắng chia ra sáu đường, ngươi cho là điềm gì ? Hoằng-Nhẫn thưa: -Đó là điềm sau Hòa-Thượng con cháu sẽ chia thêm một nhánh Phật pháp. Sư khen: -Hay thay, ngươi khéo biết đó

    Niên hiệu Trinh-Quán thứ 18 (644 T.L.) nhà Đường, Vua Thái-Tông ngưỡng mộ đạo hạnh của Sư sai sứ mang chiếu thỉnh Sư về kinh đô để tham vấn đạo lý. Sứ đi đến ba phen mà thỉnh không được. Sư cứ từ chối là già bệnh. Lần thứ tư, vua hạ lệnh nếu Sư không chịu đi thì lấy thủ cấp đem về, vì Sư phạm tội trái lệnh. Sứ giả đọc chiếu chỉ xong, Sư ngửa cổ cho sứ chém, mà thần sắc vẩn thản nhiên. Sứ giả thấy thế, không dám hạ thủ, trở về tâu lại nhà vua. Vua nghe việc nầy càng thêm kính phục, gởi đồ lụa gấm đến cúng dường.

    Đến niên hiệu Vĩnh-Huy năm thứ 2 (651 T.L) đời Đường, ngày mùng 4 tháng 9 nhuần năm Tân-Hợi, Sư gọi môn nhân vào dặn: -Tất cả các pháp thảy đều là giải thoát, các ngươi phải tự gìn giữ và giáo hóa đời sau.

    Nói xong, Sư ngồi an nhiên thị tịch. Sư thọ 72 tuổi. Môn nhơn xây tháp thờ tại núi Phá-Đầu. Sư từ khi ngộ đạo cho đến lúc thị tịch gần ngót năm mươi năm mà vẫn tinh tấn tu hành không khi nào nằm nghỉ.

    Ngày mùng tám tháng tư năm sau, tự nhiên cửa tháp mở ra, nghi dung của Sư xinh tươi như lúc sống. Từ đây về sau môn nhơn không đóng cửa tháp. Đời Tống vua truy phong Sư hiệu Đại Y Thiền Sư.

    ------------

    Phụ chú :

    (*)

    Bài sau sẽ nói rõ "do đâu mà Tổ đặt pháp danh là HOẰNG NHẪN ?"


    (**)


    華種有生性  
    因地華生生
    大緣與信合  
    當生生不生


    NAM MÔ ĐẠI TUỆ VĂN THÙ SƯ LỢI BỒ TÁT

  8. #6
    NỤ Avatar của lavinhcuong
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    410
    Thanks
    302
    Thanked 508 Times in 134 Posts


    Bài 39.

    Hoằng-Nhẫn Đại sư 弘忍大師 (602 - 675 T.L.)


    Ngài là vị Tổ thứ 32 và cũng là Tổ thứ 5 của Thiền Tông Trung Hoa.

    Một hôm, Tổ Đạo-Tín đi viếng núi Long-Phong gặp một vị sư già trồng tòng, thời nhơn gọi là Tài-Tòng đạo giả.

    Vị sư ấy hỏi Tổ rằng: -Đạo Pháp của Như-Lai có thể cho tôi nghe được chăng ?

    Tổ đáp: -Tuổi ông đã già, dù có nghe được cũng không hoằng hóa kịp. Nếu có tái sanh được thì ta cũng nán chờ.

    Đạo giả nghe dạy rồi từ tạ đi xuống núi. Đến huyện Huỳnh-Mai, thấy một cô gái đang giặt áo ở bờ sông, ông chào và hỏi: -Nhà cô ở gần xa, cô vui lòng cho tôi nghỉ nhờ được chăng ?

    Cô đáp: -Tôi còn cha mẹ không dám tự quyền, mời Sư vào nhà hỏi cha mẹ tôi là hơn.

    Ông bảo: - Vậy cô có bằng lòng không cho tôi biết ?

    Cô đáp: -Riêng tôi bằng lòng.

    Đạo giả nghe cô hứa chịu, bèn trở về núi ngồi ngay thẳng viên tịch.

    Cô gái kia là con út của nhà họ Châu, sau khi hứa lời với Đạo giả rồi, không bao lâu có thai. Cha mẹ cô thấy chưa chồng mà có thai, là làm ô nhục gia phong, quyết định đuổi cô đi. Cô mang bầu, lại sống bơ vơ không chỗ nương đỡ, phải đi kéo chỉ mướn nuôi miệng qua ngày.

    Đến ngày, cô sinh ra một đứa con trai xinh xắn, nhưng vì sự kỳ thị không chồng mà có con, nên cô đành kết bè đem thả trôi sông, hy vọng sẽ có ai đó đem về nuôi.

    Sáng ngày, cô thấy đứa bé vẫn ở chỗ cũ (nước chảy mà bè không trôi), khí sắc vẫn tươi tỉnh lạ thường. Cô lấy làm lạ nên đổi ý bồng về nuôi dưỡng tiếp, mặc cho tiếng đời dị nghị. Đến bảy tuổi, đứa bé gặp Tổ Đạo-Tín đối đáp trôi chảy, ý tứ sâu xa, được Tổ xin cho xuất gia, đặt tên là Hoằng-Nhẫn.

    Hoằng-Nhẫn có nghĩa là mẹ nhẫn nhục nuôi con, cũng có nghĩa Tổ Đạo-Tín nhẫn chờ đứa bé khôn lớn truyền pháp. Theo truyện nầy, Tổ Hoằng-Nhẫn là thân sau của Tài-Tòng đạo giả.

    Thuở nhỏ, Sư thông minh, xinh đẹp. Có ông thầy xem tướng khen rằng: "Đứa bé nầy có đầy đủ tướng tốt, chỉ thua Phật bảy tướng thôi".

    Năm bảy tuổi, Sư gặp Tổ Đạo-Tín độ cho xuất gia. Từ đây về sau, Sư theo hầu Tổ đến khi được truyền tâm ấn. Khi Tổ tịch, Sư kế thừa trụ trì tại núi Phá-Đầu, giáo hóa nơi đây rất thạnh hành. Khi ấy, dân chúng kính mộ tông phong dù ở xa nghìn dặm cũng tìm đến tham học. Tại đạo tràng nầy, tăng chúng thường trực không dưới năm trăm người.

    Khoảng niên hiệu Hàm-Hanh (670-674 T.L.) nhà Đường, có người cư sĩ tên Huệ-Năng từ phương Nam đến yết kiến Sư.

    Sư hỏi: -Ngươi từ đâu đến ?

    Huệ-Năng thưa: -Đệ tử từ Lĩnh-Nam đến.

    _ Ngươi đến đây muốn cầu việc gì ?

    _ Đệ tử chỉ cầu làm Phật, chứ không cầu việc gì khác.

    _ Người Lĩnh-Nam là kẻ man di làm sao làm Phật được ?

    _ Người thì có Nam Bắc, Phật tánh há có Nam Bắc sao ?

    Sư biết là bậc lợi căn, giả vờ nạt bảo: -Lại nhà sau đi !

    Huệ-Năng đảnh lễ, đi xuống nhà sau lãnh phần đạp chày giã gạo.

    Một hôm, Sư dự biết thời kỳ truyền pháp đã đến, liền gọi đồ chúng đến bảo: -Chánh pháp khó hiểu không nên nhớ ghi lời nói suông của ta, giữ làm nhiệm vụ của mình. Các ngươi, tùy ý mỗi người làm một bài kệ, nếu thấy được ta sẽ truyền pháp và y bát cho.

    Lúc đó, hội chúng hơn bảy trăm người, ai cũng tôn sùng thượng tọa Thần-Tú, cho rằng chỉ có TT Thần Tú là người có khả năng, nên không trình kệ. Thần Tú cũng không dám trình thẳng mà lén chép kệ lên vách hành lang. Ngủ Tổ thấy kệ còn vướng mắc, nên thầm kêu Thần Tú vào phòng riêng bảo làm lại.

    Huệ Năng nghe chúng tụng bài kệ của Thần Tú, bảo rằng "Tôi cũng có kệ, phiền ai đó chép lên dùm". Tổ Hoằng Nhẫn đọc được bài kệ ấy liền lấy dép bôi ngang dọc bài kệ và bảo :

    _ Ai làm bài kệ nầy cũng chưa thấy Tánh.

    Một hôm Sư làm bộ đi dạo xuống nhà bếp, hỏi tác giả bài kệ :

    _ Cầu đạo cực như vậy sao ? Gạo đã trắng chưa ?

    _ Dạ, gạo trắng đã lâu, chỉ chưa sàng mà thôi !

    Tổ dùng gậy gõ vào 3 cái vào cối giả gạo, rồi chắp tay sau lưng mà quay đi. Huệ-Năng nửa đêm (canh ba) đi ngỏ sau vào thất. Sư lấy y che ánh sáng, rồi giảng kinh Kim-Cang cho Huệ-Năng nghe. Đến câu "Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm" Huệ-Năng bừng ngộ, Sư dạy:

    -Chư Phật ra đời chỉ vì một đại sự nhân duyên, bởi chúng sanh căn cơ có lớn nhỏ, tùy đó hướng dẫn, mới có nói ra ba thừa, mười địa đốn tiệm, gọi đó là giáo môn. Như-Lai riêng đem chánh pháp nhãn tạng vô thượng chơn thật vi diệu trao cho Tổ Ma-Ha-Ca-Diếp, lần lượt truyền đến đời thứ 28 là Tổ Bồ-Đề-Đạt-Ma. Tổ Đạt-Ma sang Trung-Quốc truyền nối đến đời ta là 5 đời, nay ta đem Phật pháp và y bát đã thọ trao lại cho ngươi. Ngươi phải gắng gìn giữ truyền trao đừng cho bặt dứt, hãy nghe ta nói kệ:

    Hữu tình lai hạ chủng,
    Nhơn địa quả hoàn sanh,
    Vô tình ký vô chủng,
    Vô tánh diệc vô sanh.
    (*)

    (Gặp Hữu tình thì gieo giống xuống,
    Nhơn đất quả liền sanh,
    Đối với Vô tình thì không gieo giống,
    Bởi không tánh cũng không sanh).


    Huệ-Năng thọ pháp và y bát xong, lễ bái thưa: -Pháp đã nghe dạy, còn y bát có nên truyền cho người sau chăng ? Sư bảo:

    -Xưa Tổ Đạt-Ma là người nước khác, truyền pháp cho Tổ Huệ-Khả, vẫn ngại người đời không tin sự truyền thừa của thầy trò, nên lấy y bát truyền để làm tín vật. Nay tông môn của ta thiên hạ đều biết rõ, nên y bát không cần thiết phải truyền nữa, song chánh pháp thì nên gắng truyền bá ngày càng rộng. Ngươi nên đi liền, khéo tránh, thời gian sau sẽ ra hoằng hóa.

    Huệ-Năng lại hỏi: -Nay con phải đi về đâu ?

    Sư bảo: -Đến Hoài thì dừng, gặp Hội thì ẩn.

    Huệ-Năng lãnh dạy, lễ tạ rồi ra đi ngay đêm ấy. Sau khi truyền pháp, liên tiếp ba hôm, Sư không thượng đường thuyết pháp. Toàn chúng đều nghi ngờ, đồng đến thưa thỉnh.

    Sư bảo: -Pháp của ta đã đi về phương Nam rồi. Giờ lại nói gì ?

    Chúng thưa: -Người nào được ?

    Sư bảo: -Năng ấy được đó.

    Chúng biết là cư sĩ Huệ-Năng. Họ đồng đuổi theo, song ngoài Huệ Minh ra thì không ai tìm gặp được.

    Bốn năm sau, một hôm chợt Sư gọi đại chúng bảo: -Việc ta đã xong, đến lúc nên đi.

    Sư vào trong thất ngồi an nhiên thị tịch, nhằm niên hiệu Thượng Nguyên thứ hai (675 T.L.) nhà Đường, thọ 74 tuổi. Chúng xây tháp ở Đông-Sơn huyện Huỳnh-Mai tôn thờ. Vua Đường-Đại-Tông truy phong là Đại-Mãn Thiền Sư, tháp hiệu Pháp-Võ.

    Sư có trước tác tập "Tối thượng thừa luận", hiện giờ còn lưu hành.

    -----------------

    Phụ chú :

    (*)


    有情來下種  
    因地果還生
    無情既無種  
    無性亦無生


    NAM MÔ ĐẠI TUỆ VĂN THÙ SƯ LỢI BỒ TÁT

  9. #7
    NỤ Avatar của lavinhcuong
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    410
    Thanks
    302
    Thanked 508 Times in 134 Posts


    Bài 40.


    (Thưa quý đạo hữu, ở bài 39, chúng ta đã sưu khảo về đức Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn rồi, đến bài 40 này xin được trình bày tiếp về đức Lục Tổ Huệ Năng (cho liền mạch), mặc dầu trong Truyền Đăng Lục bài nói về đức Lục Tổ Huệ Năng được sắp vào quyển 5)

    Huệ-Năng Đại sư 慧能大師 (638 – 713 T.L.)

    Ngài là vị Tổ thứ 6 của Thiền Tông Trung Hoa và là Tổ thứ 33 Tây Thiên.

    Sư họ Lư, Tổ tiên quê ở Phạm-Dương, cha tên Hành-Thao, mẹ là Lý-Thị. Đời Võ-Đức (618-627 T.L.) nhà Đường cha Sư làm quan ở Nam-Hải, sau dời về Tân Châu. Sư sanh tại Tân-Châu. Sư được ba tuổi, cha mang bệnh rồi mất, mẹ thủ chí nuôi con. Sư lớn lên trong gia đình rất nghèo túng. Mỗi ngày, Sư phải vào rừng đốn củi đem ra chợ đổi gạo nuôi mẹ.

    Một hôm, nhơn gánh củi ra chợ bán, có người mua bảo gánh đến nhà. Sư gánh ngang qua một căn nhà, bỗng nghe người trong nhà tụng kinh, âm ba vang ra, Sư lắng tai, chợt nghe như người khách tha phương bổng gặp lại người thân nơi xứ lạ.

    Sư hỏi khách: - Ông tụng đó là Kinh gì ? do đâu mà được Kinh này ?

    Khách đáp: -Kinh Kim-Cang. Phát xuất từ Ngũ Tổ Hoằng-Nhẫn ở chùa Đông-Sơn, tại huyện Huỳnh-Mai.

    Nghe nói xong, Sư tỏ chí muốn tìm đến đó học đạo, song gia cảnh còn mẹ già không ai nuôi ! Có người khách hàng quen vốn cũng là Phật tử xin đài thọ số tiền để Sư cung cấp mẹ già. Gặp cơ hội tốt, Sư về xin phép mẹ cho xuất gia, mẹ Sư hoan hỉ cho xuất gia.

    Sư khăn gói lên đường, trải hơn một tháng mới đến huyện Huỳnh-Mai.

    Sư vào yết kiến Tổ, Tổ hỏi: -Ngươi từ đâu đến ?

    Sư thưa: -Dạ, con từ Lĩnh-Nam đến.

    _ Ông đến đây để cầu việc gì ?

    _ Dạ con đến đây chỉ cầu làm Phật, không cầu việc gì khác.

    _ Người Lĩnh-Nam là phường thấp kém (người Hoa hay chê là Nam man) làm sao cầu làm Phật được ?

    _ Người thì có Nam Bắc, chớ Phật tánh không chia Nam Bắc.

    Tổ biết Sư là hàng pháp khí, bèn bảo xuống nhà trù làm công quả.

    Ở đây, Sư chuyên bửa củi, giã gạo. Cối gạo to, chày đạp lớn, người Sư ốm, không đủ sức nặng để làm đối trọng cất được chày đạp, Sư phải cột thêm tảng đá lớn vào lưng để đủ sức giã gạo. Sư làm công việc nặng nhọc như vậy gần ngót sáu tháng, mà chưa khi nào trễ nải, thối chí.

    Một hôm, Tổ xuống nhà trù, đi ngay chỗ Sư giã gạo, thấy Sư mang đá giã gạo, Tổ bảo: -Ngươi vì đạo quên mình như thế ư ? Ta biết ngươi căn tánh lanh lợi, nhưng ngại kẻ khác hại ngươi nên ta không nói chuyện với ngươi, ngươi có biết chăng ?

    Sư thưa: -Dạ, con có biết.

    Tổ biết thời cơ truyền pháp đã đến, liền ra lệnh cho toàn chúng trình kệ. Trong số chúng bảy trăm người đều suy nhường Thượng tọa Thần-Tú. Thần Tú ráng hết sức làm bài kệ mà không dám trình, bèn chép lên vách hành lang rằng :

    Thân thị Bồ đề thọ
    Tâm như minh cảnh đài
    Thời thời cần phất thức
    Vật sử nhạ trần ai.
    (*)

    (Thân như cây Bồ đề
    Tâm như đài gương sáng
    Lúc lúc siêng lau chùi
    Chớ để dính bụi dơ).


    Sư nghe mọi người tụng bài kệ của Thần-Tú, lòng không phục, bèn nói :"Tui cũng có một bài kệ, xin phiền vị nào hay chữ chép dùm", kệ rằng :

    Bồ đề bổn vô thọ
    Minh cảnh diệc phi đài
    Bổn lai vô nhất vật
    Hà xứ nhạ trần ai.
    (**)

    (Cội giác nào phải cây,
    Tuệ giác có chi đài.
    Xưa nay không một vật,
    Chỗ nào dính trần ai ?!)


    Đọc kệ của Huệ Năng, Tổ biết : đây là người mà mình cần tìm, bèm lấy dép xoá đi.

    Vài hôm sau, Tổ tìm cơ hội xuống nhà trù, đến chỗ Sư đang giã gạo hỏi:

    _ Gạo trắng chưa ?

    Sư thưa: -Dạ, đã trắng mà chưa có sàng.

    Tổ bèn cầm gậy gõ trên tay cối ba cái, rồi chắp tay sau lưng đi lên. Canh ba đêm ấy Sư theo ngỏ sau, lẻn vào thất Tổ. Tổ lấy y cà sa che ánh sáng lại, rồi giảng Kinh Kim Cang cho Huệ Năng nghe, đến câu "Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm" sư ngộ được YẾU CHỈ PHẬT PHÁP, bèn vui mừng thốt lên :

    Nào dè tự tánh vốn tự thanh tịnh,
    Nào dè tự tánh vốn chẳng sanh diệt,
    Nào dè tự tánh vốn tự đầy đủ,
    Nào dè tự tánh vốn chẳng lay động,
    Nào dè tự tánh hay sanh vạn pháp!


    Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn biết Huệ Năng đã chứng ngộ, nên truyền trao y bát cho Sư, đọc bài kệ truyền pháp, và dạy đi về phương Nam.

    Sư mang y bát đi được mấy hôm vừa đến Dưu-Lãnh bị một người hiệu Huệ-Minh đuổi theo. Sư để y bát trên tảng đá, vào rừng ẩn. Huệ-Minh đến dỡ y bát lên không nổi, đành phải kêu:

    _ Hành giả ! Tôi đến đây vì pháp, chớ không vì y bát.

    Sư nghe nói, bước ra ngồi trên tảng đá bảo: -Nếu ông vì pháp, hãy bình tâm lại nghe tôi nói.

    Huệ-Minh đứng lặng yên giây lâu.

    Sư bảo: -Khi không nghĩ thiện, không nghĩ ác, cái gì là bản lai diện mục của Thượng tọa Minh ?

    Huệ-Minh nghe câu nầy liền nhận ra "mặt thật xưa nay" của mình.

    Sư thường tàng ẩn nơi hai ấp Hoài và Hội. Có lúc gặp phải cuộc sống khó khăn, Sư lại gia nhập vào đoàn thợ săn.

    Ngót mười sáu năm ẩn tránh. Sư biết cơ duyên hoằng pháp đã đến, bèn đến Quảng-Châu, nhằm ngày mùng tám tháng giêng năm Bính-Tý, niên hiệu Nghi-Phụng năm đầu (676 T.L) nhà Đường. Sư vào nghỉ nhờ ngoài hiên chùa Pháp-Tánh.

    Hôm ấy, pháp sư Ấn-Tông đang giảng kinh Niết-Bàn. Trước chùa treo lá phướng dài, gió thổi lá phướng phất phơ qua lại. Hai ông đạo lấy đó làm đề tài tranh luận. Người nói: "phướng động".người bảo "gió động"; bàn qua cải lại ỏm tỏi. Sư bảo: -Không phải phướng động, không phải gió động, mà tâm của mấy vị động. Mọi người nghe qua đều ngạc nhiên. Họ vào báo cho Ấn-Tông biết lời bàn kỳ diệu ấy.

    NAM MÔ ĐẠI TUỆ VĂN THÙ SƯ LỢI BỒ TÁT

  10. #8
    Ban Điều Hành Avatar của hoatihon
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.150
    Thanks
    1.129
    Thanked 1.675 Times in 683 Posts


    Pháp Vô Ngã (Vạn pháp Hư Huyễn)






    Bọt vỡ tan rồi!, Mộng dở dang ...

  11. #9
    Ban Điều Hành Avatar của hoatihon
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.150
    Thanks
    1.129
    Thanked 1.675 Times in 683 Posts


    Bi nguyện






    Bọt vỡ tan rồi!, Mộng dở dang ...

  12. #10
    Ban Điều Hành Avatar của hoatihon
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.150
    Thanks
    1.129
    Thanked 1.675 Times in 683 Posts
    Hoa phi hoa

    華種有生性  
    因地華生生

    大緣與信合  
    當生生不生







    Bọt vỡ tan rồi!, Mộng dở dang ...

Thông tin chủ đề

Users Browsing this Thread

Hiện có 1 người đọc bài này. (0 thành viên và 1 khách)

Quyền viết bài

  • Bạn không thể gửi chủ đề mới
  • Bạn không thể gửi trả lời
  • Bạn không thể gửi file đính kèm
  • Bạn không thể sửa bài viết của mình
  •