Bài 40.
(Thưa quý đạo hữu, ở bài 39, chúng ta đã sưu khảo về đức Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn rồi, đến bài 40 này xin được trình bày tiếp về đức Lục Tổ Huệ Năng (cho liền mạch), mặc dầu trong Truyền Đăng Lục bài nói về đức Lục Tổ Huệ Năng được sắp vào quyển 5)
Huệ-Năng Đại sư 慧能大師 (638 – 713 T.L.)
Ngài là vị Tổ thứ 6 của Thiền Tông Trung Hoa và là Tổ thứ 33 Tây Thiên.
Sư họ Lư, Tổ tiên quê ở Phạm-Dương, cha tên Hành-Thao, mẹ là Lý-Thị. Đời Võ-Đức (618-627 T.L.) nhà Đường cha Sư làm quan ở Nam-Hải, sau dời về Tân Châu. Sư sanh tại Tân-Châu. Sư được ba tuổi, cha mang bệnh rồi mất, mẹ thủ chí nuôi con. Sư lớn lên trong gia đình rất nghèo túng. Mỗi ngày, Sư phải vào rừng đốn củi đem ra chợ đổi gạo nuôi mẹ.
Một hôm, nhơn gánh củi ra chợ bán, có người mua bảo gánh đến nhà. Sư gánh ngang qua một căn nhà, bỗng nghe người trong nhà tụng kinh, âm ba vang ra, Sư lắng tai, chợt nghe như người khách tha phương bổng gặp lại người thân nơi xứ lạ.
Sư hỏi khách: - Ông tụng đó là Kinh gì ? do đâu mà được Kinh này ?
Khách đáp: -Kinh Kim-Cang. Phát xuất từ Ngũ Tổ Hoằng-Nhẫn ở chùa Đông-Sơn, tại huyện Huỳnh-Mai.
Nghe nói xong, Sư tỏ chí muốn tìm đến đó học đạo, song gia cảnh còn mẹ già không ai nuôi ! Có người khách hàng quen vốn cũng là Phật tử xin đài thọ số tiền để Sư cung cấp mẹ già. Gặp cơ hội tốt, Sư về xin phép mẹ cho xuất gia, mẹ Sư hoan hỉ cho xuất gia.
Sư khăn gói lên đường, trải hơn một tháng mới đến huyện Huỳnh-Mai.
Sư vào yết kiến Tổ, Tổ hỏi: -Ngươi từ đâu đến ?
Sư thưa: -Dạ, con từ Lĩnh-Nam đến.
_ Ông đến đây để cầu việc gì ?
_ Dạ con đến đây chỉ cầu làm Phật, không cầu việc gì khác.
_ Người Lĩnh-Nam là phường thấp kém (người Hoa hay chê là Nam man) làm sao cầu làm Phật được ?
_ Người thì có Nam Bắc, chớ Phật tánh không chia Nam Bắc.
Tổ biết Sư là hàng pháp khí, bèn bảo xuống nhà trù làm công quả.
Ở đây, Sư chuyên bửa củi, giã gạo. Cối gạo to, chày đạp lớn, người Sư ốm, không đủ sức nặng để làm đối trọng cất được chày đạp, Sư phải cột thêm tảng đá lớn vào lưng để đủ sức giã gạo. Sư làm công việc nặng nhọc như vậy gần ngót sáu tháng, mà chưa khi nào trễ nải, thối chí.
Một hôm, Tổ xuống nhà trù, đi ngay chỗ Sư giã gạo, thấy Sư mang đá giã gạo, Tổ bảo: -Ngươi vì đạo quên mình như thế ư ? Ta biết ngươi căn tánh lanh lợi, nhưng ngại kẻ khác hại ngươi nên ta không nói chuyện với ngươi, ngươi có biết chăng ?
Sư thưa: -Dạ, con có biết.
Tổ biết thời cơ truyền pháp đã đến, liền ra lệnh cho toàn chúng trình kệ. Trong số chúng bảy trăm người đều suy nhường Thượng tọa Thần-Tú. Thần Tú ráng hết sức làm bài kệ mà không dám trình, bèn chép lên vách hành lang rằng :
Thân thị Bồ đề thọ
Tâm như minh cảnh đài
Thời thời cần phất thức
Vật sử nhạ trần ai. (*)
(Thân như cây Bồ đề
Tâm như đài gương sáng
Lúc lúc siêng lau chùi
Chớ để dính bụi dơ).
Sư nghe mọi người tụng bài kệ của Thần-Tú, lòng không phục, bèn nói :"Tui cũng có một bài kệ, xin phiền vị nào hay chữ chép dùm", kệ rằng :
Bồ đề bổn vô thọ
Minh cảnh diệc phi đài
Bổn lai vô nhất vật
Hà xứ nhạ trần ai.(**)
(Cội giác nào phải cây,
Tuệ giác có chi đài.
Xưa nay không một vật,
Chỗ nào dính trần ai ?!)
Đọc kệ của Huệ Năng, Tổ biết : đây là người mà mình cần tìm, bèm lấy dép xoá đi.
Vài hôm sau, Tổ tìm cơ hội xuống nhà trù, đến chỗ Sư đang giã gạo hỏi:
_ Gạo trắng chưa ?
Sư thưa: -Dạ, đã trắng mà chưa có sàng.
Tổ bèn cầm gậy gõ trên tay cối ba cái, rồi chắp tay sau lưng đi lên. Canh ba đêm ấy Sư theo ngỏ sau, lẻn vào thất Tổ. Tổ lấy y cà sa che ánh sáng lại, rồi giảng Kinh Kim Cang cho Huệ Năng nghe, đến câu "Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm" sư ngộ được YẾU CHỈ PHẬT PHÁP, bèn vui mừng thốt lên :
Nào dè tự tánh vốn tự thanh tịnh,
Nào dè tự tánh vốn chẳng sanh diệt,
Nào dè tự tánh vốn tự đầy đủ,
Nào dè tự tánh vốn chẳng lay động,
Nào dè tự tánh hay sanh vạn pháp!
Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn biết Huệ Năng đã chứng ngộ, nên truyền trao y bát cho Sư, đọc bài kệ truyền pháp, và dạy đi về phương Nam.
Sư mang y bát đi được mấy hôm vừa đến Dưu-Lãnh bị một người hiệu Huệ-Minh đuổi theo. Sư để y bát trên tảng đá, vào rừng ẩn. Huệ-Minh đến dỡ y bát lên không nổi, đành phải kêu:
_ Hành giả ! Tôi đến đây vì pháp, chớ không vì y bát.
Sư nghe nói, bước ra ngồi trên tảng đá bảo: -Nếu ông vì pháp, hãy bình tâm lại nghe tôi nói.
Huệ-Minh đứng lặng yên giây lâu.
Sư bảo: -Khi không nghĩ thiện, không nghĩ ác, cái gì là bản lai diện mục của Thượng tọa Minh ?
Huệ-Minh nghe câu nầy liền nhận ra "mặt thật xưa nay" của mình.
Sư thường tàng ẩn nơi hai ấp Hoài và Hội. Có lúc gặp phải cuộc sống khó khăn, Sư lại gia nhập vào đoàn thợ săn.
Ngót mười sáu năm ẩn tránh. Sư biết cơ duyên hoằng pháp đã đến, bèn đến Quảng-Châu, nhằm ngày mùng tám tháng giêng năm Bính-Tý, niên hiệu Nghi-Phụng năm đầu (676 T.L) nhà Đường. Sư vào nghỉ nhờ ngoài hiên chùa Pháp-Tánh.
Hôm ấy, pháp sư Ấn-Tông đang giảng kinh Niết-Bàn. Trước chùa treo lá phướng dài, gió thổi lá phướng phất phơ qua lại. Hai ông đạo lấy đó làm đề tài tranh luận. Người nói: "phướng động".người bảo "gió động"; bàn qua cải lại ỏm tỏi. Sư bảo: -Không phải phướng động, không phải gió động, mà tâm của mấy vị động. Mọi người nghe qua đều ngạc nhiên. Họ vào báo cho Ấn-Tông biết lời bàn kỳ diệu ấy.

Trả lời với trích dẫn