DIỄN ĐÀN PHẬT PHÁP THỰC HÀNH - Powered by vBulletin




Cùng nhau tu học Phật pháp - Hành trình Chân lý !            Hướng chúng sinh đi, hướng chúng sinh đi, để làm Phật sự không đối đãi.


Tánh Chúng sinh cùng Phật Quốc chỉ một,
Tướng Bồ Đề hóa Liên hoa muôn vạn.

Hiện kết quả từ 1 tới 10 của 123
  1. #1
    HOA Avatar của Thanh Mai
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    1.948
    Thanks
    594
    Thanked 287 Times in 173 Posts


    83. “Tôi không cần gì cả”



    Cho dù ngài đến bất cứ nơi nào, Patrul Rinpoche, vị đại sư của phái Đại Thành, luôn luôn nhận được nhiều phẩm vật cúng tặng. Một khi nhận được phẩm vật gì, ngài thường tặng ngay cho các thợ đẽo đá, thợ thủ công, để họ có thể khắc thần chú, xây chùa tháp với các vật đó. Ít ra là họ cũng làm điều gì có ý nghĩa.Patrul Rinpoche thường đọc câu:


    “Đối với kẻ nghèo nên rộng rãi,

    Đối với kẻ ác nên kiên nhẫn từ bi.

    Đối với người đau đớn, sợ hãi, nên sẵn sàng giúp đỡ,

    Đối với vô minh nên có lòng tha thứ.

    Đối với kẻ yếu kém nên có lòng cảm thông,

    Đối với những kẻ còn bám víu cuộc đời giả tạm này,

    Nên có lòng từ bi vô lượng.”




    Học trò của Patrul để ý thấy rằng những lúc bố thí cho ăn xin, xem ra vị đạo sư mình còn vui mừng hơn cả chính người ăn xin. Và họ cũng để ý Patrul thích nghe tiếng kêu van ăn xin hơn cả âm nhạc hay những lời tham vấn lễ độ.Lần nọ một người thợ đẽo đá thất nghiệp, tên Phukop đến gặp Patrul và xin tiền. Patrul bảo: “Khổ thân anh, bây giờ anh hãy nói ‘Tôi không cần tiền’, thì ta sẽ cho anh một số tiền lớn.”

    Người nọ nghĩ “Không biết lại trò gì đây!” nhưng không nói ra.Patrul phải nhắc ba lần điều kiện lạ lùng đó thì Phukop mới chịu nói “Tôi không cần tiền.” Sau đó Patrul rút tiền vàng trong túi ra và cho người thợ. Học trò của Patrul rất ngạc nhiên về hành động kỳ quái của thầy. Thường thường thầy mình rất rộng rãi, bố thí không chút điều kiện, không bỏ một người ăn xin nào. Họ hỏi Patrul hành động đó nhằm mục đích gì, thì vị đạo sư kể câu chuyện như sau:

    Có lần một người nọ rất nghèo, đến cúng Phật Cồ-đàm một ít bánh kẹo. Một vị bà-là-môn ham thức ngọt, nhìn bánh kẹo rồi hỏi xin Phật. Ông ta biết rằng Phật chẳng bao giờ từ chối. Phật trả lời: “Nếu ngươi nói ‘Cồ-đàm, tôi không cần thứ đồ ngọt này,’ thì ta cho ngươi hết.” Vị bà-là-môn nọ vâng lời và được các thứ.Lúc sau, A-nan hỏi Phật về mục đích câu chuyện, Phật nói: “Trong 500 kiếp vừa qua, vị bà-là-môn đó chưa hề có một lần thấy mình đầy đủ, chưa hề thấy mình không cần gì cả. Vừa rồi đó là lần đầu, có người chỉ cho ông nói câu đơn giản ‘Tôi không cần…’ để làm quen với cảm giác vô sở cầu. Nhờ thế mà lòng tham ái sẽ vơi đi và hạt giống xả bỏ đã được gieo.”

    Sau lần đó, nhiều ngày qua không có kẻ ăn xin hay nghệ nhân thiếu thốn nào đến với Patrul cả. Vật phẩm cúng dường chất cao thành đống trong trú xá của Patrul và thực phẩm để lâu ngày cũng không còn tươi ngon. Bỗng nhiên, mặt Patrul tươi lên và nói: “À, bây giờ cả đám sắp đến rồi!”

    Quả nhiên vài tiếng sau có bốn năm người thợ đẽo đá đến thăm, Patrul đã soạn sẵn tiền bạc, thực phẩm, và vật dụng nghệ thuật cho họ. “Đây, hãy lấy những gì mà các bạn cần!” Patrul nói trước khi các người đó mở miệng cầu xin.

    “Hãy đẽo thần chú lên đá và làm cho cảm hứng các bạn được thành hình” Patrul nói theo khi các người đó, túi đầy vật phẩm, bắt đầu xuống núi. Sau đó Patrul quay lại nói với học trò: “May quá cũng xong các của cúng dường. Các thứ này nằm ngổn ngang như những thây ma.”

    “Nắng vàng nhuộm thắm đồi xanh,
    Gió ngàn thoáng lại bức mành nhà ai”.


    Huyền Mơ 1953



  2. #2
    HOA Avatar của Thanh Mai
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    1.948
    Thanks
    594
    Thanked 287 Times in 173 Posts


    84. Nhân quả (tái sinh)




    Trong các chuyến du hành, Patrul Rinpoche vốn là kẻ không nhà, thường lưu trú trong các tu viện có tiếng của Tây Tạng để truyền giáo pháp Đại Thành. Mục đích càng gặp được nhiều người căn cơ càng hay.Lần nọ, ngài ở lâu trong tu viện cổ nổi tiếng Katok, mỗi ngày ngài hội họp với các vị Lạt-ma và trả lời tham vấn. Sau buổi sáng nọ, vị đại Lạt-ma Katok Situ của viện mời ngài gặp riêng và dùng bữa trưa. Katok Situ lấy làm hân hạnh được gặp riêng vị đạo sư phiêu bồng này, để được chỉ cho ngài các bảo vật của tu viện. Như một đứa trẻ con, Patrul ngạc nhiên nhìn quanh và nói “Thật khó tin, ở đây thật là xa hoa! Katok Situ, tu viện của ngài có lẽ là viện giàu có sang trọng nhất mà tôi đã từng thấy. Trong mỗi phòng có da hổ da báo, thảm lụa vàng bạc, áo quần, đồ cổ, hộp đựng châu báu… Và đất đai của viện nhìn ngút mắt, và những đàn trâu bỏ không thể kể hết. Tôi có cảm giác như lạc vào cõi thần tiên. Trên đời này thật khó có. Thật đáng nể sợ…”

    Không nghe Katok Situ trả lời, Patrul Rinpoche nói tiếp “Còn tôi, tôi chỉ có một cái nồi nhỏ nấu trà trên đường phiêu bạt. Tôi nghe ngài sắp đi miền Đông. Hay là ngài cho gói cái nồi của tôi theo, và tôi đi cùng? Tôi thì thích đi tay không cho khoẻ.”

    Sau khi Patrul rời tu viện, Katok Situ họp các vị Lạt-ma và thông báo làm cả viện sửng sốt, là ông sẽ từ chức đại Lạt-ma để rút vào rừng núi sống độc cư, từ bỏ mọi của cải. Katok Situ đã hiểu những lời khuyên kín đáo của vị tu sĩ phiêu bồng giác ngộ đó. Sau đó Katok Situ một mình đi đến vùng băng giá Dokham, là một thánh địa của dân Tây Tạng. Đến đó, ông cũng giống như mọi kẻ ăn xin hay tầm đạo khác, phiêu bạt rách rưới, với một bình bát bằng gỗ. Ông vừa đi vừa trộn các thứ xin được trong bình.

    Một ngày nọ, Patrul Rinpoche nhận được một mảnh giấy của Katok: “Cám ơn ngài, tôi đã chân thành nghe lời ngài. Tôi đang thiền định.”

    Patrul nói: “Đây này, đây là người thật sự lắng nghe những gì ta nói.”


    “Nắng vàng nhuộm thắm đồi xanh,
    Gió ngàn thoáng lại bức mành nhà ai”.


    Huyền Mơ 1953



  3. #3
    HOA Avatar của Thanh Mai
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    1.948
    Thanks
    594
    Thanked 287 Times in 173 Posts





    Vài năm sau, vị độc cư Katok đó ở vùng băng giá Dokham được một người đến thăm. Người đó mang theo một đứa bé gái. Đứa bé nói: “Chúng con đã nghe danh ngài từ lâu, chúng con đến để xin ngài ban phước.”

    Katok Situ ban phép lành cho hai người, sau đó cô bé dâng tặng ông một bao bột gạo. Katok không còn cái gì đựng bột nên nói “Cứ đổ bột lên trên nền đá, và như thế là tốt rồi.”

    “Con xin ngài giữ nguyên bao bột, đó là dấu hiệu lòng cảm tạ của con” cô bé nói. Giọng nói và thái độ của cô bé có cái gì đó làm Katok chú ý. Ông lựa các phẩm vật của những kẻ hành hương khác dâng tặng để vương vãi trước cửa động, lấy một sợi chuyền vàng với hột đá quý đưa cho cô bé.Tất nhiên là cô bé không nhận châu báu này của một vị tu sĩ nghèo nàn, nhất là khi cô thấy hột đá quý là loại ngọc Achat có sọc, đó là thứ mà dân Tây Tạng rất quý.

    “Cứ lấy đi, con phải nhận quà tặng của ta và mang vào cổ” Katok yêu cầu. “Mỗi ngày con phải mang.”

    Cô bé vẫn lưỡng lự cho đến khi tu sĩ độc cư nói “Con không hề biết ý nghĩa của sự trao qua đổi lại này.” Lúc đó thì cô mới nhận, mang sợi chuyền với viên ngọc quý trên cổ, và nhận phép lành của Katok thêm một lần nữa.Cuối buổi hành hương, cô bé về lại nhà. Cô ở không xa một vị đạo sư giác ngộ khác, đó là Jamyang Khyentse Wangpo (19). Vì là cháu gái của ngài, nên cô hay đến thăm và học hỏi. Ít lâu sau người ta kể rằng vị sư độc cư ở Dokham đã từ trần. Cô bé nghe xong khóc ròng như khóc người thân nhất vừa qua đời. Chỉ khi rờ viên ngọc quý trên cổ, cô mới có niềm tin, có cảm giác như một sức mạnh vô hình nào an ủi.

    Thời gian trôi qua, và cô bé lấy chồng, người thiếu phụ đó sinh một con trai, và trong những năm sau, đứa con đó giải thích với mẹ một cách rõ ràng rằng, nó không ai khác hơn là sự tái sinh của vị hiền nhân Katok Situ.


    “Nắng vàng nhuộm thắm đồi xanh,
    Gió ngàn thoáng lại bức mành nhà ai”.


    Huyền Mơ 1953



  4. The Following User Says Thank You to Thanh Mai For This Useful Post:

    Thanh Trúc (08-20-2017)

  5. #4
    HOA Avatar của Thanh Mai
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    1.948
    Thanks
    594
    Thanked 287 Times in 173 Posts


    85. Tự hy sinh






    Dola Jigme Kelsang là một học trò của Dodrup Chen Rinpoche đệ nhất. Sau khi giác ngộ, ngài trở thành một vị đạo sư của phái Đại Thành. Ngài cùng đệ tử đi suốt các vùng Đông-Bắc Tây Tạng, thậm chí đến Mông Cổ để truyền bá giáo pháp.

    Ngày nọ, Dola cùng hai học trò đến một thị trấn miền Tây trung quốc, và vào nơi họp chợ, thấy một đám đông đang reo hò. Tới gần thì mới hay đang có một cuộc xử tử công khai. Người ta đang trói một tên trộm trên lưng một con ngựa sắt và đốt lửa trong bụng con ngựa để xử tử tên trộm. Tên đạo tặc la khóc thảm thiết và cầu xin cứu giúp. Đám đông reo hò chửi rủa và kể tội tên trộm đã làm bao người đau khổ. Vị Dola từ bi không biết làm sao khác hơn là đứng ra và tự nhận mình mới là kẻ trộm, xin tha cho tên kia.Nhiều người không tin, cãi nhau om sòm, nhưng Dola, với lòng từ bi vô lượng, đã thuyết phục được, cuối cùng đồ tể thả tên trộm và bắt cổ Dola, trói ngài lên ngựa sắt. Là những tên khát máu, họ đốt lửa, ngựa sắt cháy đỏ. Dola ngồi trên lưng ngựa, mắt nhìn vào cõi vô cùng. Không một lời than vãn, ngài rời bỏ thế giới này.

    Hai bạn đồng hành là hai chứng nhân của câu chuyện thật này và kể lại cho đời. Tây Tạng không hề quên chuyện ấy, và ngày nay, các vị thầy còn kể cho trò nghe. Người ta biết rằng có nhiều cách để chuyển hóa sự sợ hãi và đau đớn trước cái chết, ngay lúc còn sống cũng thế. Dola Jigme Kelsang là một trong những đạo sư đã chứng tỏ được điều này.




    “Nắng vàng nhuộm thắm đồi xanh,
    Gió ngàn thoáng lại bức mành nhà ai”.


    Huyền Mơ 1953



  6. #5
    HOA Avatar của Thanh Mai
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    1.948
    Thanks
    594
    Thanked 287 Times in 173 Posts


    86. Củ cải của Saraha





    Tu sĩ Saraha (51) Ấn Độ sống ở thế kỷ thứ III, vừa được tôn thờ như một anh hùng, đồng thời có người cho ông là phù thủy. Saraha là tác giả của một tập các bài ca nổi tiếng, có tên “Các bài ca vương giả của Saraha”, ngày nay còn được truyền tụng. Sau này người ta mới thấy các bài ca này là tác phẩm tuyệt diệu của một tâm hồn đắc đạo.

    Như các tu sĩ Tantra trước và sau mình, Saraha thu nhận một thiếu nữ của giai cấp thấp nhất vào nhà mình, vì ông chẳng quan tâm gì đến các quy định của Ấn Độ thời đó. Ngược lại ông chỉ mong có dịp để phá các định kiến trên dưới, và vì thế nàng thiếu nữ 15 tuổi này không được ông thuê làm nữ tì, mà được ông chỉ dạy cho thực hành phép tu Tantra, trong trường hợp này là phép giao phối, và được ông biến thành vợ.

    Ta có thể tưởng tượng làng xóm, cũng như giai cấp bà-la-môn hồi đó xôn xao thế nào khi ông và nàng vợ trẻ biến mất vào rừng không còn cho ai gặp mặt. Còn nàng thiếu nữ đó cũng say mê ông ngay từ lúc mới gặp, vì nhờ ông mà nàng thoát khỏi giai cấp bần cùng nô lệ. Nàng khuyên chồng cứ thực hành các phép tu thần bí, không cần quan tâm đến sự hiện diện của nàng, và nàng không có gì mong ước khác hơn là được phục vụ một người giác ngộ, và được học hỏi nơi chồng.Cả hai sống viễn ly như thế trong rừng già Ấn Độ, như các vị tu sĩ Tantra khác, với người phối ngẫu của họ. Họ thiền quán, thực hành phép yoga của sự giao phối xuất thần, và đối xử với nhau bằng lòng kính trọng cao cả. Saraha cũng chịu khó làm các công việc mà vợ mình không làm được, nhưng nói chung nàng phục vụ chồng như một học trò phục vụ vị đạo sư.

    Ngày nọ, người thiếu phụ mang cho chồng một món ăn và câu chuyện sau đây xảy ra, đi vào lịch sử của Saraha. Thường thì ông hay ăn tất cả những gì dọn lên, không quan tâm đến món ăn. Nhưng lần đó ông kêu lên “Dọn cho ta món cà-ri củ cải.” Người vợ phải đi mua củ cải về nấu cà-ri, thêm sữa chua và dọn lên trong lá chuối. Sau đó nàng dâng lên nhưng Saraha ngồi yên, tréo hai chân lại, không phản ứng gì cả. Thì ra ông chồng đã nhập định rất sâu và không nghe thấy gì nữa từ thế giới bên ngoài. Nàng để chồng yên và lo việc khác.

    Thế mà 12 năm trôi qua, Saraha không hề nhúc nhích khỏi chỗ ngồi. Có lẽ ông xuất thần đi đâu rất xa, tuy thế vẫn không hoàn toàn rời thân. Sau 12 năm và ba tháng, Saraha mở bừng mắt ra và kêu “Cà-ri củ cải đâu rồi?”

    Người vợ không biết nên cười hay khóc, và nói “Ông thật điên! Ông là một đạo sư kỳ dị. Cà-ri đã theo số phận của thế gian từ những năm trước, còn ông thì ngồi đây như một củ cải cắm xuống đất. Mười hai năm trôi qua rồi mà ông vẫn còn bám vào tư tưởng cũ rích sao?”

    Saraha không trả lời. Ông còn phải định thần lại. Nhưng người vợ, đã trở thành một nữ tu đầy tiến bộ trong thời gian qua, nàng nói tiếp, hai tay chống nạnh: “Mười hai năm qua, ông làm gì thế, có lẽ không phải là một phép thiền quán đích thực đâu. Kẻ du hành tư tưởng như ông, chưa chắc là đã thiền định đúng cách. Kẻ rút về sống độc cư, chưa chắc ở một mình. Độc cư đích thực chính là rủ bỏ mọi suy luận giải thích, từ bỏ mọi cân nhắc nhị nguyên, và nếu chúng có dấy lên thì đừng có bám víu chúng. Còn ông, mười hai năm ông cứ chờ vài củ cải trong ảo tưởng. Thế mà ông gọi mình là đại toàn năng (52) sao?”

    Lời nói của vị thần phẫn nộ mang dạng người đó đánh trúng Saraha tận xương tủy. Cũng đúng lúc đó, ông thấy mình tỉnh giác hơn, hơn hẳn trước kia. Trong những năm sau, cả hai đạt một cấp mới về giác ngộ, không còn rơi trở lại trạng thái tầm thường của con người, và nhận ra mình chính là ánh sáng phát chiếu từ tự tính bất diệt.

    Đến lúc phải rời cõi thế, cặp vợ chồng này biến mình thành ánh sáng thanh tịnh và thể nhập vào tự tính, không để lại dấu vết nào của thân.




    “Nắng vàng nhuộm thắm đồi xanh,
    Gió ngàn thoáng lại bức mành nhà ai”.


    Huyền Mơ 1953



  7. #6
    HOA Avatar của Thanh Mai
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    1.948
    Thanks
    594
    Thanked 287 Times in 173 Posts


    87. Tu sĩ biết bay






    Một ngày đẹp trời trong vắt nọ tại Tây Tạng vào thế kỷ trước, tu sĩ Schabkar Rinpoche cùng với hai học trò đi du hành. Ba người dẫn theo một con ngựa chở các thứ họ cần. Họ dắt con người đi từ đỉnh núi này qua đỉnh núi khác, thưởng thức cảnh đẹp địa phương và tìm nguồn cảm hứng cho các bài ca. Cả ba vừa đi vừa ca, vừa qua một đường đèo cheo leo thì thấy một người đàn bà nằm trên đường, mặt úp xuống đất. Schabkar vội nhảy tới, kéo bà dậy, nhưng hầu như bà không nhúc nhích nổi. Bà run run xin chút thức ăn và nước uống.

    Schabkar mở túi, nấu chút trà và đổ vào miệng bà. Sau đó ông lấy bột mì, trà và bơ để vào một cái túi, đưa cho bà thấy, để bà già tin những tuần tới đây sẽ không bị đói. Bà già đã không một lời cảm ơn, mà còn cất giọng đã hồi sức, đòi hỏi thêm áo quần. Schabkar vui lòng mở bọc lấy thêm áo quần cho bà và để bên cạnh. Bà già trông thật xấu xí, cả ba chưa bao giờ thấy người nào xấu như vậy. Nhưng Schabkar Rinpoche không hề quan tâm đến điều đó và nhìn bà với lòng cảm mến như ông đã từng đối với mọi người khác.Bà già nhìn con ngựa rồi nói: “Khốn khổ cho ta không đi được nữa, còn các ngươi trai tráng… nếu các ngươi cho ta con ngựa thì hay biết mấy!”

    Các học trò của Schabkar đã hết kiên nhẫn. Nhưng vị tu sĩ biết hát nọ đã sẵn sàng cất túi treo trên ngựa. “Nào mời bà,” ông nói và đỡ bà đứng dậy. “Bà đừng lo gì cho tương lai. Chúng tôi sẽ giúp bà đầy đủ.”

    Ông cẩn thận đỡ bà già lên ngựa trong lúc hai đệ tử nhìn nhau không hiểu. Lên lưng ngựa xong, bà nhìn họ một cách khinh mạn, nở nụ cười chê trách khi thấy vẻ mặt của hai người học trò. Trong phút đó bà già biến thành một người hoàn toàn khác. Một hơi ấm đầy sức sống toát ra từ gương mặt bà và cái lưng còng đã biến thành thẳng. “Schabkar,” bà lão gọi với giọng tươi vui, “ta nghe người là kẻ có trí. Nhưng ta muốn tự mình xem ngươi có lòng từ bi và óc hóm hỉnh đên đâu. Ta chẳng cần ngựa lẫn tất cả các thứ của ngươi, ta không thiếu gì cả, từ vô thủy tất cả đều ở trong ta, ta chứa cả thế giới. Nào, hãy nói đi, hỡi vị hộ pháp, ngươi vẫn chưa biết ta là ai chăng?”

    Schabkar đứng như trời trồng, nhìn sững dạng hình không nói nên lời. “Nếu ngươi không biết thì nghe đây” nói xong bà lão biến thành dạng ánh sáng của nữ thần Vajra Varahi. Trên ngựa là một khối ánh sáng đỏ rực, phát lửa khắp mọi hướng và biến thành một vị phẫn nộ hai đầu. Đó là một vị thần có cái đầu khổng lồ, nhe răng dữ tợn, phía trên có cái đầu heo, đen như mực, gầm gừ. Như người khác hẳn sẽ bỏ chạy ngay, nhưng Schabkar Rinpoche đứng yên và lắng nghe những lời bà lão. “Hãy nhìn và nhận ra ta. Đây là hình dạng của Vajra Varahi, nữ thần vô úy. Ta sẽ đưa ngươi về thiên giới và sẽ lo lắng cho ngươi. Đừng ngoảnh mặt.”

    Khối lửa bỗng lớn như một ngọn núi. Nữ thần trần truồng, cổ mang một chuỗi đầu lâu nhỏ máu, bắt đầu múa với nhiều biểu tượng sâu kín. Một tay cầm kiếm bén, tay kia cầm đầu lâu. Vajra Varahi kẹp một chĩa ba, trên có đầu lâu. Học trò Schabkar quay mặt không dám nhìn.Bỗng nhiên nữ thần biến thành một đám mây ngũ sắc, cười và ném cho Schabkar một bọc. Schabkar vừa chụp lấy thì nữ thần đã thăng thiên, nhìn người tu sĩ như mời gọi, trong khi ông còn đứng yên tại chỗ. Học trò Schabkar chỉ kịp thấy ông nhét bọc đó vào áo, hai tay vươn lên cao như muốn bay theo. Sau đó họ la lên khi thấy ông bay theo thiệt.





    “Nắng vàng nhuộm thắm đồi xanh,
    Gió ngàn thoáng lại bức mành nhà ai”.


    Huyền Mơ 1953



  8. #7
    HOA Avatar của Thanh Mai
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    1.948
    Thanks
    594
    Thanked 287 Times in 173 Posts


    88. Rầu rĩ cũng phải cười




    Geshe Langri Thangpa sống cách đây khoảng tám trăm năm tại Tây Tạng và là một Lạt-ma thông thái của trường phái Kadampa (53), đây là trường phái được đạo sư Ấn Độ A-đề-sa thành lập trước đó không lâu. Nguyên tắc của trường phái này là hết lòng phục vụ mọi người với lòng từ bi vô hạn, nhờ đó mà sự phân biệt giả tạo giữa "ta" và "người" một ngày nào đó sẽ tự biến mất.Langri Thangpa cảm thấy trường phái này phù hợp với mình vì ông rất nhạy cảm và dễ dàng đặt mình vào tâm trạng của người khác, hầu như chính mình đang trong hoàn cảnh của người. Tuy nhiên cứ đặt mình vào cảnh khổ của người, ông càng buồn rầu theo. Lòng từ bi của ông lên cao đến nỗi ông rút vào núi để cầu nguyện, nhịn ăn và cảm nhận những gì chúng sinh đang đau khổ.Bạn đồng tu khuyên ông: "Tất cả chỉ là một giấc mơ, giấc mơ này xuất hiện vì con người tự đồng hóa với một cái thân có sống, có chết, tại sao bạn lại quan tâm quá sức như thế?"

    "Không đáng buồn sao khi tất cả các loài hữu tình hàng ngày phải chịu cơn ác mộng đó", vị Lạt-ma Langri Thangpa tự nói. "Đời sống trong vòng sinh tử này khi lên khi xuống, giữa cái hy vọng được thỏa nguyện và cái thất vọng cay đắng. Và tất cả nỗi khổ của cõi Ta-bà này là nỗi khổ của chính ta".

    Ông được mệnh danh là "Người rầu rĩ thánh thiện". Ngày đó, ông trùm khăn trên đầu, như có tang và đi trong hành lang tu viện.Nhiều tăng sĩ hỏi "Có ai chết chăng?" Ông lầu bầu trả lời "Nếu hỏi, có ai không chết chăng, xem ra thông minh hơn". Sau đó ông bỏ đi để tiếp tục thiền quán về cái khổ.

    Lần khác, Langri Thangpa ngồi trước một cái bàn gỗ thấp, trên bàn đang có nhiều cơm. Ngửi có mùi thức ăn, một con chuột bò ra. Vị Lạt-ma đang trộn cơm với đá quí để làm Man-đa-la, đó là các đồ hình với ý nghĩa sâu kín mà ông thường dùng để thiền định.Vị Lạt-ma ngồi yên lặng nên con chuột yên trí bò lên bàn. Con chuột ngửi nhằm một viên đá turquoise và tìm cách kéo viên đá đi. Nhưng con chuột quá nhỏ mà viên đá khá lớn, lại dính chắc vào cơm nên không sao kéo ra nổi.

    "Bạn thân mến", ông nói, "Cái viên xanh xanh đó không phải là pho mát đâu, nó là một viên đá không ăn được, bỏ nó đi". Thế nhưng con chuột đã kéo viên đá ra được một nửa, nhưng không mang theo được. Langri Thangpa nhìn con chuột với cách nhìn của hiền nhân từng trải: “Sự cố gắng vô vọng này làm ta nhớ đến cuộc tranh đấu của người đời với vật chất. Làm được gì đâu khi chuyển vật chất từ nơi này qua nơi khác. Tưởng rằng làm xong việc, nhưng cuối cùng lại đổ nát, hoàn toàn vô ích".

    Vị Lạt-ma nghĩ đến đó thì con chuột biến mất và không thấy ra nữa. Ông đang tiếp tục hoàn thành Man-đà-la thì bỗng nhiên con chuột lại xuất hiện, lần này có thêm một con nữa. Hai con xúm nhau kéo viên đá ra khỏi đống cơm, một con kéo, một con đẩy, và cuối cùng chúng biến mất với chiến lợi phẩm.

    Langri Thangpa cười to tiếng, từ nhiều năm nay ông mới cười. Tiếng cười của ông bất ngờ và đầy nhân hậu, mặt ông sáng lên như mặt trời vừa mọc.Ông thốt lên thành tiếng: "Mong sao chúng sinh trong vũ trụ muốn gì được nấy."






    SƯ TỬ TUYẾT BỜM XANH

    HẾT


    “Nắng vàng nhuộm thắm đồi xanh,
    Gió ngàn thoáng lại bức mành nhà ai”.


    Huyền Mơ 1953



  9. The Following User Says Thank You to Thanh Mai For This Useful Post:

    chimvacgoidan (08-24-2017)

Thông tin chủ đề

Users Browsing this Thread

Hiện có 1 người đọc bài này. (0 thành viên và 1 khách)

Quyền viết bài

  • Bạn không thể gửi chủ đề mới
  • Bạn không thể gửi trả lời
  • Bạn không thể gửi file đính kèm
  • Bạn không thể sửa bài viết của mình
  •