Hôm sau, A-đề-sa đi vòng xung quanh bảo tháp ở Giác Thành, tay lần chuỗi hạt, bỗng nghe chim hót ríu rít. Chim vừa đậu xuống tổ được làm bên cạnh đầu gối của tượng Quán Thế Âm. Chàng có cảm tưởng tiếng chim hót như nhắc lại thắc mắc của mình. Và ngước nhìn tượng Quán Thế Âm, chàng nghe nét mặt bức tượng hầu như nói: "Muốn nằm yên trong tự tính, ngươi hãy rũ bỏ mọi vướng mắc, mọi thành kiến. Sau đó, dù nghe qua có mâu thuẫn, ngưoi hãy mang tất cả gánh nặng của chị em ngươi, nếu thấy họ có lỗi thì hãy tha thứ hết cho họ. Chỉ có thế ngươi mới tự giải thoát ra khỏi ảo giác của một cái ta, cái ta tưởng chừng tội lỗi”.
A-đề-sa đứng yên như tượng, lòng tràn đầy tri kiến, thứ tri kiến chàng đã biết nhưng lần này không còn một thứ nghi hoặc nào cản đường. Trong tâm chàng bỗng hiện lên một linh ảnh: một người lạ nói với tình thương vô biên. Trên một vùng đất xa lạ, người đó ngồi dưới bóng dừa và giơ tay vẫy A-đề-sa ngồi xuống bên cạnh. Một thời gian sau A-đề-sa lên đường đi Sumatra, một hòn đảo nhiệt đới, nơi đó đạo sư giác ngộ Serlingpa, vị thầy sau cùng đã đợi sẵn. Chàng ở tại đó 12 năm và được Serlingpa truyền đạo cho, thường bằng tâm truyền tâm. Sau khi Serlingpa nhập diệt, A-đề-sa trở thành truyền nhân, nắm giữ một phép bí truyền của Đại Thừa Phật giáo. Đó là phép Tonglen, được dịch là Chuyển hoá. Đó là phép trong đó hành giả chấp nhận cái năng lực tối tăm, thô bạo của sự ích kỷ của người khác, rút năng lực đó vào trong tâm mình và biến nó thành con đường của lòng Từ bi rực sáng. Tonglen, một khi được hành giả thượng căn áp dụng là một phép chữa bệnh vô song, nhưng đó là một phép tu khó khăn nên đến giữa thế kỷ 20 vẫn còn bí truyền.
Trong những năm sau đó, A-đề-sa trở về Ấn Độ và giảng dạy tại đại học Vikramaschila. Hàng ngàn ngưòi đã được gặp ông và còn nhớ ông là người có những tri thức lạ lùng về con người của chính họ. Lời tiên tri của nữ thần Tara đã thành sự thật và một ngày kia, nhà vua Tây Tạng nghe đến tên tuổi và lòng Từ bi rộng khắp của ông. Nhà vua cử một đoàn sứ giả qua Ấn Độ, dâng cúng nhiều vàng bạc để mời cho được A-đề-sa qua Tây Tạng. Mới đầu A-đề-sa xin cho được suy nghĩ, nhưng thực tế ông không suy nghĩ gì cả, chẳng tìm lời câu trả lời gì trong tri thức của mình, mà liên hệ với Quán Thế Âm và Tara để xin các ngài hướng dẫn. Tara bằng cách nói không lời, cho biết Tây Tạng bây giờ và mai sau rất cần sự hiện diện của A-đề-sa. Nhưng Tara nói thêm, nếu đi Tây Tạng A-đề-sa chỉ sống đến 72 tuổi, còn nếu ở lại Ấn Độ thì thọ 92 tuổi. Sau đó A-đề-sa lên đường đi Tây Tạng, không chút ngần ngừ .
Nhờ con ngưòi này mà Phật giáo Tây Tạng được phục hưng, nhất là phép tắc quy luật của cả một xã hội được chỉnh đốn lại từ gốc. Tại Tây Tạng, A-đề-sa được xem là vị đạo sư của quy y, vì nhờ ông mà vô số người thoát khỏi được vòng vây hãm của ảo giác. Năm 72 tuổi, ông rời thế giới này, trở về sứ xở của vô biên, đúng như Tara đã tiên đoán.
 
  
					
					
					
						
  Trả lời với trích dẫn