DIỄN ĐÀN PHẬT PHÁP THỰC HÀNH - Powered by vBulletin




Cùng nhau tu học Phật pháp - Hành trình Chân lý !            Hướng chúng sinh đi, hướng chúng sinh đi, để làm Phật sự không đối đãi.


Tánh Chúng sinh cùng Phật Quốc chỉ một,
Tướng Bồ Đề hóa Liên hoa muôn vạn.

Hiện kết quả từ 1 tới 10 của 123
  1. #1
    HOA Avatar của Thanh Mai
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    1.948
    Thanks
    594
    Thanked 287 Times in 173 Posts




    4. Chiếc răng chó mầu nhiệm





    Ngày xưa có một bà lão sống với đứa con trai. Đứa con làm nghề buôn bán, phải đi Ấn Độ và Tây Tạng thường xuyên. Ngày kia, đứa con trai sắp phải lên đường đi Ấn Độ thì bà mẹ bảo: ‘Giác Thành’ (Bodh Gaya) tại Ấn Độ là nơi đức Phật Thích-ca thành đạo, vì thế mẹ nhờ con mang về một ít xương tro hay bùa chú, pháp khí gì đó. Mẹ sẽ thờ và xem như sự hiện diện của chính đức Phật trong nhà mình. Năm này qua năm khác, bà mẹ nhắc nhở đứa con, nhưng lần nào đứa con cũng về lại Tây Tạng mà không thực hiện được lời mẹ dặn.

    Một ngày nọ, đứa con lại lên đường đi Ấn Độ và bà mẹ nói: ‘Nếu lần này con không mang gì cho mẹ từ Giác Thành (4) về để mẹ thờ, thì mẹ sẽ tự tử chết thôi’. Đứa con lấy làm sợ lòng quyết tâm của mẹ, hứa lần này sẽ không quên.

    Sau vài tháng làm việc, người con lên đường trở về nhà, bỗng nhớ rằng mình đã không ghé ngang Giác Thành để tìm xương tro cho mẹ. ‘Làm sao bây giờ ?’, anh ta tự hỏi ‘Mẹ ta sẽ tự tử thật đấy nếu không mang gì về cho bà’. Anh ta nhìn quanh thì thấy một con chó chết đã khô. Người con vội vàng nhổ một cái răng chó, quấn lại cẩn thận trong một chiếc khăn lụa.Về đền nhà, đứa con ra vẻ vui mừng bảo mẹ ‘Đây chính là một chiếc răng của Phật Cồ-đàm, bậc Chánh đẳng Chánh giác. Kể từ giờ phút đó, bà hết lòng thờ phụng chiếc răng và cũng không bao lâu sau đó, bà tìm được sự an lạc nội tâm, điều mà suốt đời bà ra công tìm kiếm.Cũng không bao lâu sau thì bạn bè và hàng xóm cũng nhận thấy rằng có một thứ ánh sáng ngũ sắc bao xung quanh chiếc răng, và những tia sáng huyền ảo chiếu trên đó. Mỗi ngày có nhiều người đến lạy bàn thờ của bà lão và xin được tiếp một chút năng lực của chiếc răng mầu nhiệm. Tới ngày bà lão chết, ánh sáng ngũ sắc cũng bọc quanh thân bà và miệng bà mỉm cười làm cho đứa con trai đang than khóc hiểu rằng, bà đang trở về tự tính, từ đó mọi vật được sinh thành.

    Kể từ ngày đó người ta biết rằng, một chiếc răng chó cũng trở thành mầu nhiệm, nhưng với điều kiện đó là sức mạnh của một trái tim sẵn sàng tiếp nhận và lòng từ bi của một vị Phật kết hợp với nhau.



  2. The Following User Says Thank You to Thanh Mai For This Useful Post:

    votam (06-02-2017)

  3. #2
    HOA Avatar của Thanh Mai
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    1.948
    Thanks
    594
    Thanked 287 Times in 173 Posts


    5. Bức tượng biết nói




    Kongpo là một tỉnh ở miền Nam Tây Tạng mà dân vùng đó có tiếng là đầy tín tâm và không mấy người có trình độ hiểu biết.Trong số các tu viện Tây Tạng thì ‘Jokhang’ tại Lhasa là linh thiêng hơn cả. Trong viện có một tượng Phật rất xưa, trình bày Phật Cồ-đàm hồi còn niên thiếu và được mang tên là Jowo Rinpoche (Đức hạnh cao quý). Tượng Phật này được mang từ Trung Quốc qua Tây Tạng cả ngàn năm trước và là phẩm vật của một công chúa kết duyên với vua Tây Tạng thời đó. Ben, một thanh niên vùng quê Kongpo, suốt đời mơ ước được chiêm ngưỡng vẻ đẹp của tu viện Jokhang, của tượng Phật linh thiêng nhất Tây Tạng. Một ngày kia, Ben được lên đường đi Lhasa để tận mắt chiêm bái Thánh địa này.

    Sau một chuyến đi khổ nhọc, cuối cùng Ben đến kinh đô Lhasa, đi như người mất hồn trong các con đường của ‘Thành phố chư Thiên’ này… nhìn thấy điện Potala (5), Ben thật là xúc động, đó là nơi mà đức Quán Thế Âm (6) đang hiện tiền dưới dạng của vị Đạt-lai Lạt-ma (7).Đáng xem thay, dòng người vô tận đang đi vòng xung quanh điện Potala! Thật tuyệt vời, vẻ đẹp của điện Norbu Lingka, cung điện mùa hè của vị Nguyên thủ quốc gia, với bao nhiêu chạm trổ và các bảo tháp đầy tính nghệ thuật. Cũng không được bỏ qua các tu viện đáng trọng nhất như Sêra và Drepung, nơi đào tạo Tăng sĩ. Ben tự nhủ thầm: ‘may mắn thay cho ta, đời ta còn có thể thấy được những nơi này’.

    Sau đó Ben vào tu viện Jokhan, và kìa, tượng Jowo Rinpoche trong thế ngồi liên hoa, to như người thực, toả ra một cảm giác tôn quý thầm lặng mà vĩ đại.Ben quỳ lạy trước bức tượng ba lần, nhưng lần nào hầu như cũng mắc kẹt với đôi ủng cũ kĩ, rồi chiếc mũ đầy bụi của Ben lại rơi xuống đất. Ben cởi ủng, cầm mũ, đặt lên lòng bức tượng đang mỉm cười yên lặng và nói: ‘Hỡi Jowo Ripoche, hãy coi chừng giùm các thứ này để cho con yên tâm chiêm bái tiếp’.

    Ben đi chân không vòng quanh bức tượng vàng, vui thích ngắm hàng chục ánh đèn dầu trên bục tượng và đủ các loại bánh trái để bên cạnh.



  4. The Following User Says Thank You to Thanh Mai For This Useful Post:

    votam (06-02-2017)

  5. #3
    HOA Avatar của Thanh Mai
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    1.948
    Thanks
    594
    Thanked 287 Times in 173 Posts


    Ben cám ơn đức Phật toàn trí và dưới lòng từ bi toả sáng của Jowo Rinpoche, Ben mạnh dạn lấy bánh, nhúng vào dầu thắp đèn và ăn ngon lành. Đáp lại lòng từ bi của Phật, Ben hứa lớn tiếng sẽ đón Phật bất cứ lúc nào tại Kongpo. Vì làm nghề mổ heo, Ben hứa sẽ mổ con heo mập mạp nhất, cho đủ thứ gia vị để chiêu đãi Phật. Ben đâu biết rằng đạo Phật chủ trương không giết hại loài vật và hoàn toàn tin rằng lời mời của mình sẽ được Phật nhận lời. Ngay lúc đó thì cửa mở toang, vị sư già giữ đền bước vào. Vị sư đứng sững người nhìn đôi ủng dơ bẩn và chiếc mũ rách nát trên lòng đức Phật và nhìn thấy bột bánh đang dính vào râu của Ben.Vị sư giận giữ chụp đôi ủng và chiếc mũ trên lòng tượng Phật, bỗng một tiếng nói huyền bí cất lên: ‘Dừng tay, các thứ này của đứa học trò yêu quý ở xứ Kongpo của ta!’

    Vị sư run bắn người, đi lui mười bước. Ông nằm dài xuống đất và xin tượng tha thứ sơ xuất của mình. Sau đó ông rút lui, để Ben ở lại một mình trong phòng, để cho chàng thanh niên này tiếp tục nói chuyện theo cách riêng của anh ta với vị ‘Đức hạnh cao quý’.

    Sau đó Ben về lại với gia đình tại Kongpo, nhưng tin đồn bức tượng nói chuyện với chàng đã về trước, nếu có ai hỏi gì về tin đồn đó, Ben chỉ nói lơ: “Ôi, thời buổi này chẳng biết tin nào đúng tin nào sai’. Người ta đồn rằng, bức tượng quả nhiên đã nhận lời mời của chàng Ben thật thà và hiện ra trước mắt chàng trong một dòng suối gần nhà. Ben thò tay vào nước vớt tượng đi được một vài bước, nhưng cuối cùng vì tượng nặng quá nên Ben để Phật rơi xuống đất. Tượng chìm xuống đất cả thước và mọi người đều có thể chiêm ngưỡng bức tượng đó.

    Đến ngày hôm nay, dân làng Kongpo vẫn còn đi quanh hố đất với dấu tích của Jowo đang mỉm cười và lạy tượng bằng cách cúi đầu sát đất. Tu viện Jokhang ở kinh đô Lhasa có thể rất xa nhưng người biết chuyện tin rằng vị ‘Đức hạnh cao quý’ thì ở rất gần họ.



  6. The Following 2 Users Say Thank You to Thanh Mai For This Useful Post:

    hoatihon (06-02-2017),votam (06-02-2017)

  7. #4
    HOA Avatar của Thanh Mai
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    1.948
    Thanks
    594
    Thanked 287 Times in 173 Posts


    6. Giải thoát mọi loài







    Một vị Lạt-ma già nọ kiếm được một tảng đá bằng phẳng bên cạnh một cái hồ để chuyên tâm thiền định. Mỗi ngày ông đều ngồi đó. Đó là một cái hồ đầy ếch nhái chuyên ăn côn trùng. Nhưng cứ mỗi lần bắt đầu ngồi thế liên hoa để đạt tâm thức sâu kín của tự tính thì lại một lần ông thấy một côn trùng giãy giụa trong nước, dường như cần đến ông giúp đỡ. Lần nào cũng thế, vị sư già lại phải xuất thiền, lại cử động cái xương cốt đã già, lại giải cứu thứ côn trùng tí hon này, sau đó mới lại nhập định.

    Lần lần các vị tu tập thiền định và Lạt-ma khác bắt đầu chú ý đến ông, một người không bao giờ ngồi yên và hầu như dùng thời gian thiền định để giải cứu côn trùng. Tuy người Tây Tạng nào cũng biết cần cứu vớt loài vật, nhưng có vài vị Tăng khuyên ông nên kiếm một chỗ khác thiền định chứ đừng ngồi bên hồ nữa. Họ nói: ‘Nên chăng đi kiếm một nơi khác mà ngồi để thiền định, không ai quấy rầy?’ Có người nói: ‘Nên chăng trước hết cần thoát khỏi mọi ảo giác? Sau đó, khi đã giác ngộ ta có thể giúp mọi loài hữu tình, chứ không thể giúp như thế’. Một Lạt-ma trẻ tuổi khác lại nói: ‘Nên chăng khi thiền định cần nhắm mắt lại để chưyên tâm quán tưởng vào cái chủ yếu nhất, tính vô thường của chính bản thân tâm thức mình’. Sau khi nghe mọi lời góp ý, vị Lạt-ma già cúi đầu cảm ơn các Tăng sĩ và nói: ‘Các bạn có lý, hỡi các vị nam nữ. Nhưng một kẻ già yếu và thấp kém như tôi, đã nguyện theo lòng từ bi của đức Quán Thế Âm, thực hiện hạnh nguyên đó trong đời này và mọi đời sau,lại có thể ngồi yên và đọc mật chú đại bi trong lúc loài hữu tình bất hạnh đang chết đuối trước mắt mình?’

    Không ai trả lời cả.



  8. The Following User Says Thank You to Thanh Mai For This Useful Post:

    votam (06-02-2017)

  9. #5
    HOA Avatar của Thanh Mai
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    1.948
    Thanks
    594
    Thanked 287 Times in 173 Posts



    7. Kẻ phiêu bồng giác ngộ






    Patrul Rinpoche (8) được xem là bậc thầy hiệu quả nhất của phái Đại Thành(Dzogchen) trong thế kỷ 18. Đại Thành (9) có nghĩa ‘Tri kiến trực tiếp về tự tính thanh tịnh’. Vì vậy Đại Thành không phải chỉ là một tông phái hay một phép tu, không chỉ là một dòng tái sinh, không phải chỉ là trạng thái đạt đạo. Đại Thành chính là tinh yếu của giáo pháp đức Phật. Vì lẽ đó mà Patrul Rinpoche được xem không phải chỉ là một vị đạo sư, thi sĩ hay nhà tiên tri, ngài cũng là một vị Phật hoàn toàn. Thực ra, người ta xem ngài là một trong những tái sinh của đức Quán Âm mà người Tây Tạng gọi là ‘Chenrezig’: lòng Đại Bi.

    Có lần trong một chuyến du hành Patrul Rinpoche gặp một nhóm Lạt-ma, các vị đó trên đường tham dự buổi lễ tại miền Đông Tây Tạng. Các vị Lạt-ma không nhận ra Patrul, thấy ngài trong bộ quần áo nhàu nát, với thái độ kiêm tốn, cho rằng đây cũng chỉ là một kẻ tầm đạo. Vì thế họ vui lòng cho Patrul tham gia trong nhóm, bắt nấu trà, nhóm củi và phục vụ các vị lớn tuổi trong đoàn. Đoàn vừa đến vùng Kham thì có tin gần đó có một vị Lạt-ma cao cấp sẽ chỉ dẫn và khai thị cho đoàn. Nhóm Lạt-ma vội vàng lên đường để tham dự buổi lễ. Tất cả Lạt-ma và cư sĩ được đưa vào ngồi theo thứ tự chính thức, người được ngồi trên ghế trọng vọng, kẻ phải đứng ở xa. Các vị Tăng mang nón mũ, áo quần, huy hiệu hết sức rực rỡ. Vị Tăng thống ngồi trên một bệ cao. Sau khi tiếng còi, tù và, chiêng trống dứt hẳn và phần nghi lễ đã qua thì mọi người hiện diện lần lượt đi qua trước vị đó để nhận phép lành và gửi nơi chân vị Tăng thống một tấm khăn trắng.

    Trước hết vị Tăng thống đưa tay rờ đầu các người đi ngang. Về sau khi thấy đoàn người quá nhiều đi không muốn hết, ngài chỉ còn rờ đầu bằng một sợi lông công. Hàng giờ trôi qua, cuối cùng người còn lại là một kẻ quần áo lôi thôi, vốn đi nấu trà cho một nhóm Tăng sĩ không mấy quan trọng.Vị Tăng thống bỗng mở mắt thật lớn nhìn con người có dáng vẻ phiêu bạt đang quỳ dưới chân mình. Nguời đó không ai khác hơn chính là một vị Phật đang hiện tiền, vị đạo sư Đại Thành (dzogchen) Patrul Rinpoche độc nhất vô nhị và người đó lại đang xin phép lành của mình.

    Vị Tăng thống nhảy ào từ trên cao xuống, nằm mọp dưới chân kẻ áo quần rách rưới. Đám đông hoảng hốt kêu lên sợ hãi, vị Tăng thống ngồi dậy, dúi vào tay Patrul Rinpoche sợi lông công rồi lại quỳ xuống. Patrul khoát tay từ chối, sau đó đưa tay nâng vị Tăng thống lên, không để cho vị này cứ quỳ lạy mình mãi.



  10. #6
    HOA Avatar của Thanh Mai
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    1.948
    Thanks
    594
    Thanked 287 Times in 173 Posts



    8. Tu tập hạnh nhẫn nhục






    Cách đây khoảng một thế kỷ, vào thời đại sư phái Đại Thành là Patrul Rinpoche chuyên độc hành mọi nơi, với một chiếc áo lông cừu cũ nát, không mấy người hay biết. Trên bước đường rong ruỗi, ngài có nghe nói đến một vị ẩn cư cả chục năm nay trong một hang động tối yăm, chuyên tâm thiền định và đã đạt được thần thông đáng kể.Patrul lên đường tìm gặp vị tu sĩ này và xem mình có thể giúp được gì cho người này không. Patrul đột ngột đi thẳng vào hang động đó, ngồi bên cạnh và cười thân thiện.Người tu sĩ nọ hỏi: ‘Ngươi là ai, từ đâu đến và đi về đâu trong cái xứ trơ trụi này?’ Patrul đáp: ‘Tôi đến từ sau lưng tôi và đi về phía trước”. Kẻ độc cư hỏi: ‘Thế ngươi sinh ở đâu?’

    ‘Ở trên trái đất’.

    Tu sĩ bắt đầu mất kiên nhẫn: ‘Hãy nói tên ngươi ta nghe’. “Vô tích sự” –Patrul đáp. Sau khi trả lời, Patrul hỏi tại sao tu sĩ lại ẩn cư trong chốn thâm sơn cùng cốc này. Kẻ ẩn cư này hầu như chỉ đợi câu hỏi đó, trả lời một cách hãnh diện: ‘Ta ngồi đây đã hai mươi năm để thiền quán và tu tập hạnh nhẫn nhục’.

    ‘Đáng khâm phục’, người khách trả lời và lè lưỡi tỏ vẻ nể trọng. Sau đó Patrul kề môi nơi tai người tu sĩ: ‘Nhưng hai kẻ già đời như chúng ta đều biết thừa rằng chẳng bao giờ đạt được cái đó, phải không nào?’ Người tu sĩ nhảy dựng ra khỏi thế ngồi liên hoa: ‘Ngươi muốn gì mà quấy rầy ta một cách thô bỉ thế? Ngươi là ai mà lại dám không kính nể ta?’

    Patrul trả lời: ‘Vâng, chúng ta là gì, là ai, bạn và tôi, và… hạnh nhẫn nhục của bạn đâu rồi?’



  11. #7
    HOA Avatar của Thanh Mai
    Tham gia ngày
    Jun 2015
    Bài gửi
    1.948
    Thanks
    594
    Thanked 287 Times in 173 Posts



    9. “Con chó thân mến”





    Tự do như con chó ghẻ lở, chẳng còn ai muốn dạy dỗ


    Thời còn trẻ, Patrul Rinpoche là học trò của nhiều đại sư nổi tiếng vào thế kỷ 19. Vị thượng tọa Gyaway Nyugu vừa chỉ dạy cho Patrul về Phật tính ẩn náu bên trong thì Patrul gặp đại sư Doe Khyentse (10). Đây là một vị sư có tính tình kỳ cục và lần đó đã chận cửa không cho Patrul vào thăm một người bạn.‘Ê, hộ pháp vĩ đại kia, ngươi biết ta là ai không?’ Doe Khyentse châm chọc.Patrul đã nghe danh ông sư kỳ quái này rồi. Ông đã từng xách súng qua làng qua xóm, hăm doạ nhiều người, làm người ta giật mình sợ hãi, với mục đích là đánh thức giấc ngủ tâm linh triền miên của con người. “Ngươi hãy tới gần đây, nếu ngươi có gan!”, Doe Khyentse hăm. Patrul tới gần ông sư đáng sợ đó. Doe chụp tóc thắt bím của Patrul, quật ngã sóng soài.

    “Hơi thở của Doe Khyentse có mùi bia. Ông ta đang say, ta không chấp”, Patrul nghĩ thầm. Nhưng Doe Khyentse là người đọc được ý nghĩ của người khác. “Ngươi là kẻ dùng trí, kẻ học rộng biết nhiều, là kẻ ưa thích phân biệt”, ông hét. ‘Bộ ngươi không biết rằng tất cả đều thanh tịnh, tất cả đều hoàn hảo ư, con chó thân mến!’. Ông giơ ngón tay út lên, đối với người Tây Tạng, đó là cử chỉ khinh bỉ nhất, nhổ vào mặt Patrul rồi đi mất.

    Ngay lúc đó học trò Patrul bỗng đạt một bước giác ngộ. Trong một tia chớp của tuệ giác, Patrul nhận ra rằng, tâm thức phân biệt của mình vốn không hề rời tâm giác ngộ rực sáng của Phật, vô thủy vô chung là một với thể tánh đó, từ thể tánh đó mà phát ra thiên hình vạn trạng sự vật.Một niềm an lạc vô biên tràn ngập trong lòng Patrul. Patrul ngồi yên trong bụi cát, nơi mà Doe đã ném huỵch ông xuống đất, để cho mặt trời chiếu rực trên đầu và không cần để ý người qua kẻ lại.

    Ngày sau, khi Patrul được tôn thành Rinpoche (cao quý), ngài vẫn thường nhằc lại phương tiện giáo hóa của thầy mình và nói: ‘Nhờ tính bất ngờ vô song và lòng từ bi của đức Khyentse mà một trong những danh hiệu của ta là “con chó thân mến”. Với lòng sở cầu và tâm vô phân biệt, ta đi khắp xứ sở. Tự do như con chó ghẻ lở, chẳng còn ai muốn dạy dỗ”.



Thông tin chủ đề

Users Browsing this Thread

Hiện có 1 người đọc bài này. (0 thành viên và 1 khách)

Quyền viết bài

  • Bạn không thể gửi chủ đề mới
  • Bạn không thể gửi trả lời
  • Bạn không thể gửi file đính kèm
  • Bạn không thể sửa bài viết của mình
  •