KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA
Quyển 476
__________________________________________________ ______________________________________


Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát có tâm xa lìa mười lực của Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng cũng gọi là thô trọng.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát có tâm xa lìa pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả cũng gọi là thô trọng.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát có tâm xa lìa trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cũng gọi là thô trọng.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát có tâm xa lìa tất cả hạnh Đại Bồ-tát cũng gọi là thô trọng.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát có tâm xa lìa quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật cũng gọi là thô trọng.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát tham trước quả Dự lưu cho đến Độc giác Bồ-đề cũng gọi là thô trọng.

Lại nữa, này Thiện Hiện! Nếu Đại Bồ-tát có tưởng về sắc, thọ, tưởng, hành, thức cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về nhãn xứ cho đến ý xứ cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về sắc xứ cho đến pháp xứ cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về nhãn giới cho đến ý giới cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về sắc giới cho đến pháp giới cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về nhãn thức giới cho đến ý thức giới cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về nhãn xúc cho đến ý xúc cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về địa giới cho đến thức giới cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về nhân duyên cho đến tăng thượng duyên cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về các pháp do duyên sanh ra cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về vô minh cho đến lão tử cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về tám giải thoát cho đến mười biến xứ cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về Tịnh quán địa cho đến Như Lai địa cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về tất cả pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về năm loại mắt, sáu phép thần thông cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp Phật bất cộng cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp của bậc Đại sĩ cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về quả Dự lưu cho đến Độc giác Bồ-đề cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về tất cả hạnh Đại Bồ-tát cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về Dị sanh, tưởng về Thanh văn, tưởng về Độc giác, tưởng về Bồ-tát, tưởng về Như Lai cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về địa ngục, tưởng về bàng sanh, tưởng về ngạ quỷ, tưởng về người, tưởng về trời, tưởng về nam, tưởng về nữ cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về cõi Dục, tưởng về cõi Sắc, tưởng về cõi Vô sắc cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về pháp thiện, tưởng về pháp không thiện cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về pháp hữu ký, tưởng về pháp vô ký cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về pháp hữu lậu, tưởng về pháp vô lậu cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về pháp thế gian, tưởng về pháp xuất thế gian cũng gọi là thô trọng. Có tưởng về pháp hữu vi, tưởng về pháp vô vi cũng gọi là thô trọng.