KINH ĐẠI BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐAQuyển 459__________________________________________________ ______________________________________
Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào an trụ tịnh lự Ba-la-mật-đa gồm cả tinh tấn Ba-la-mật-đa, Thiện Hiện! Đại Bồ-tát nào an trụ tịnh lự Ba-la-mật-đa, quán sắc, thọ, tưởng, hành, thức đều bất khả đắc, quán nhãn xứ cho đến ý xứ bất khả đắc; quán sắc xứ cho đến pháp xứ bất khả đắc; quán nhãn giới cho đến ý giới bất khả đắc; quán sắc giới cho đến pháp giới bất khả đắc; quán nhãn thức giới cho đến ý thức giới bất khả đắc; quán nhãn xúc cho đến ý xúc bất khả đắc; quán các thọ do nhãn xúc làm duyên sanh ra cho đến các thọ do ý xúc làm duyên sanh ra bất khả đắc; quán địa giới cho đến thức giới bất khả đắc; quán nhân duyên cho đến tăng thượng duyên bất khả đắc; quán vô minh cho đến lão tử bất khả đắc; quán bố thí Ba-la-mật-đa cho đến Bát-nhã ba-la-mật-đa bất khả đắc; quán pháp nội Không cho đến pháp vô tính tự tính Không bất khả đắc; quán chơn như cho đến cảnh giới bất tư nghì bất khả đắc; quán Thánh để khổ, tập, diệt, đạo bất khả đắc; quán bốn niệm trụ cho đến tám chi thánh đạo bất khả đắc; quán bốn tịnh lự, bốn vô lượng, bốn định vô sắc bất khả đắc; quán tám giải thoát cho đến mười biến xứ bất khả đắc; quán pháp môn giải thoát không, vô tướng, vô nguyện bất khả đắc; quán tịnh quán địa cho đến Như Lai địa bất khả đắc; quán Cực hỷ địa cho đến Pháp vân địa bất khả đắc; quán tất cả pháp môn Đà-la-ni, pháp môn Tam-ma-địa bất khả đắc; quán năm loại mắt, sáu phép thần thông bất khả đắc; quán mười lực Như Lai cho đến mười tám pháp bất cộng của Phật bất khả đắc; quán ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp của bậc Đại sĩ bất khả đắc; quán pháp không quên mất, tánh luôn luôn xả bất khả đắc; quán trí nhất thiết, trí đạo tướng, trí nhất thiết tướng bất khả đắc; quán quả Dự lưu cho đến Độc giác Bồ-đề bất khả đắc; quán tất cả các hạnh Đại Bồ-tát bất khả đắc; quán quả vị Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề của chư Phật bất khả đắc; quán trí nhất thiết trí bất khả đắc; quán cảnh giới hữu vi bất khả đắc; quán cảnh giới vô vi bất khả đắc, do Đại Bồ-tát này quán tất cả các pháp đều bất khả đắc nên không làm, do không làm nên không tạo dựng, do không tạo dựng nên không sanh, do không sanh nên không diệt, do không diệt nên không chấp thủ, do không chấp thủ nên hoàn toàn thanh tịnh, thường trụ không thay đổi. Vì sao? Bởi vì Phật xuất thế hay không xuất thế thì tất cả các pháp đều an trụ vào pháp giới, pháp tánh, pháp trụ, không sanh, không diệt, thường không biến đổi. Đại Bồ-tát này tâm thường không rối loạn, thường an trụ vào tác ý tương ưng với trí nhất thiết trí, quán sát như thật thấy tánh các pháp đều vô sở hữu, vị ấy lại đem căn lành tích tụ được, dùng vô sở đắc làm phương tiện cho các hữu tình, rồi cùng nhau hồi hướng trí nhất thiết trí. Lúc hồi hướng không có hai ý nghĩ là: Ai hồi hướng và hồi hướng cho ai? Thiện Hiện! Đó là Đại Bồ-tát an trụ vào tịnh lự Ba-la-mật-đa gồm cả Bát-nhã ba-la-mật-đa.

Trả lời với trích dẫn