Lời vàng của thầy tôi
THUẬT NGỮ
__________________________________________________ ______________________________________


Thất chi nguyện – yan lag bdun, Phạn: satanga, một hình thức cầu nguyện gồm có bảy phần: lễ lạy, cúng dường, sám hối, hoan hỉ, cầu thỉnh các vị Thầy chuyển Pháp luân, khẩn cầu các Ngài không nhập Niết Bàn, và hồi hướng công đức.

Thiện căn (căn lành) – dge ba’i rtsa ba, Phạn: kusalamula, những hành vi tích cực giống như gốc rễ (căn) (rtsa ba) của công đức hay của những điều tốt lành (dge ba).

Three Roots – xem Ba Nguồn Gia Trì, Ba Lực Gia Trì.

Thuyết ngôn – gsung rab, Skt. Pravacana, lời Đức Phật.

Trạng thái như nhiên (Bản Tánh, Tự Tánh, Tự Tánh Đế) – gnas lugs, Phạn: prakriti, nghĩa đen: cách thức an trụ. “Bản tánh hay duyên sinh của vạn pháp.” DICT.

Trạng thái trung ấm (Bardo) – bar do, Phạn: antarabhava, thuật ngữ được dùng cho những giai đoạn kinh nghiệm khác nhau giữa cái chết và giai đoạn tái sinh kế tiếp; với một lối giải thích rộng lớn hơn bao gồm các trạng thái tâm thức khác nhau trong cuộc đời. Bốn trạng thái trung ấm được phân định như:
1) trạng thái trung ấm tự nhiên của đời này (rang bzhin skyes gnas bar do),
2) trạng thái trung ấm của lúc chết (‘chi kha’i bar do),
3) trạng thái trung ấm của thực tại tối thượng (chos nyid bar do), và
4) trạng thái trung ấm của sự hình thành (srid pa’i bar do); hoặc để tạo thành sáu trạng thái trung ấm, hai trạng thái đặc biệt nữa được thêm vào trạng thái thứ nhất: 5) trạng thái trung ấm của giấc mộng (rmi lam bar do) và 6) trạng thái trung ấm của thiền định (bsam gtan bar do).

Trạng thái trung ấm của sự hình thành – srid pa’i bar do, trạng thái trung ấm trong đó nghiệp lực xô đẩy ta tới sự tái sinh kế tiếp trong luân hồi sinh tử. AT: trạng thái trung ấm của những triển vọng, trạng thái trung ấm của sự hiện hữu.

Trạng thái trung ấm của chân tánh – chos nyid bar do, trạng thái trung ấm khi mà chân tánh hiển lộ như những sắc tướng thuần tịnh của hai tánh an bình và phẫn nộ, phù hợp với các khuynh hướng cá nhân của riêng ta.

Trăm Đấng Hộ Phật – rigs brgya, bốn mươi hai vị Hộ Phật an bình (peaceful deity) và năm mươi tám vị Hộ Phật phẫn nộ (wrathful deity).

Trakpa Gyaltsen – grags pa rgyal mtshan (1147-1216), một trong năm đại học giả của phái Sakya; năm đại học giả này được biết đến như là Sakya Gongma (Năm Đại Trưởng Lão Dòng Sakya).

Tri giác (Tri kiến) – snang ba, những gì xuất hiện trong mắt của mỗi cá nhân tuỳ theo khuynh hướng (tập khí) hay sự phát triển tâm linh của họ. NT, trích dẫn Patrul Rinpoche, nói về ba loại tri giác (và tri kiến):
1) các tri kiến sai lầm xuất hiện trong tâm thức của chúng sinh trong sáu cõi do sự hiểu biết sai lạc; những tri kiến này được gọi là các tri kiến mê lầm bất tịnh của thế giới và chúng sinh.
2) các tri giác về duyên khởi (rten ‘brel), các ảo giác huyễn hoặc (sgyu ma), tương ứng với tám ẩn dụ về ảo giác mà ta không xem là thật có (xem Phần Một, Chương Hai, Mục III, tiết 2.6.
3) đây là những tri giác của các Bồ Tát thuộc mười địa trong trạng thái hậu-thiền định của các Ngài (rjes thob). 3) các tri giác xác thực, toàn thiện của trí tuệ; khi ta chứng ngộ trạng thái như nhiên của vạn pháp, chúng sinh và toàn thể thế giới xuất hiện như là sự hiển bày của các thân (kaya) và trí tuệ.

Tri giác thanh tịnh (Tri kiến thuần tịnh) – dag snang, “tri giác cho rằng toàn thể thế giới và những gì được chứa đựng trong đó là một cõi Phật thuần tịnh, là sự hiển bày của các Thân (kaya) và trí tuệ.” DICT

Trích xuất tinh chất – bcud len, một phương pháp khiến ta có thể chỉ dùng những chất thể hay yếu tố nào đó với một lượng ít ỏi, mà không phải dùng thực phẩm thông thường.

Triệu thỉnh và thành tựu – bsnyen sgrub, hai bước trong các pháp hành trì liên quan tới việc trì tụng một mantra (minh chú). Trong bước thứ nhất, các hành giả triệu thỉnh Bổn Tôn mà họ đang quán tưởng bằng cách trì tụng câu minh chú của Bổn Tôn. Trong bước thứ hai, họ đủ thuần thục để tự đồng nhất với Bổn Tôn.