Lời vàng của thầy tôiCHÚ THÍCH__________________________________________________ ______________________________________
321.“Người ta muốn nói gì qua từ năng lực (rlung được tượng trưng bởi giọt tinh chất bindu xanh lục) và tâm (sems được tượng trưng bởi chủng tử tự hrih)? Khía cạnh chuyển động chính là năng lực và khía cạnh thấu biết chính là tâm thức, nhưng tự bản chất thì năng lực và tâm thức chỉ là một và đồng nhất.” NT
322. Một vị tôn giả đã khám phá được những kho tàng tâm linh ở thế kỷ thứ 14.
323.mkha spyod: nói chung, là một cõi Trời. Ở đây một cõi Trời “vĩ đại” (mkha spyod chen po) được ám chỉ như thế có nghĩa là một loại cõi Phật, được hiển lộ vì lợi ích của chúng sinh. Một cõi Trời “nhỏ” (mkha spyod chung ngu) có thể ám chỉ bất kỳ cõi Trời nào. (Cũng xem chú thích 314.)
324.gnam chos. Namcho hay Giáo Lý Hư Không là một tuyển tập giáo lý mười ba cuốn mà Ngài Mingyur Dorje, là một vị khai quật tàng kinh trứ danh, đã thọ nhận được trong một loạt các linh kiến. Mingyur Dorje sinh năm 1645 và tịch năm 1668 lúc hai mươi ba tuổi. Dòng Namcho là một trong những truyền thống tu tập chính yếu của các tu viện Nyingma thuộc phái Palyul và Kathok ở miền Đông Tây Tạng.
325.Những chướng ngại như thế phát sinh chủ yếu do kỹ thuật sai lạc khi hô tiếng “Hik” trong pháp môn này. “Hik là một âm thanh làm rút ngắn thọ mạng. Khi sử dụng âm thanh này, ta phải kéo hơi xuống dưới rốn, kéo dài khí của phần trên cơ thể và nhướng mắt thật mạnh mẽ nhìn vào không gian. Nếu các chướng ngại xuất hiện, hãy nén khí ở trên xuống, xả khí ở dưới và trải rộng khí tại rốn, và trì tụng ba âm Kim Cương (om ah hum, phối hợp với sự hít vào, nín hơi, và thở ra), tập trung tâm bạn vào lòng bàn chân và mắt nhìn xuống dưới. Các chướng ngại sẽ biến mất.” NT
326.Những pháp tu dự bị cho “Đạo và Quảû” (lam ‘bras) của truyền thống Sakya được đặt nền tảng trên ba loại tri giác (snang ba gsum): tri giác bất tịnh (ma dag pa’i snang ba), tri giác hỗn hợp được các hành giả kinh nghiệm qua các pháp thực hành (mal ‘byor nyams kyi snang ba), và tri giác thanh tịnh (dag pa’i snang ba).
327.Như trong “Đại Thừa Tối Thượng Luận” (rgyud bla ma, Phạn ngữ: Uttaratantrasastra) và những bản văn khác. ZR
328.Tây Tạng: rig pa rtsal gyi dbang bskur.
329.Kushab Gemang, Gyalse Shenpen Thaye hay Gyalse Rigpa’i Dorje (sinh năm 1800), là một trong những vị nắm giữ dòng truyền thừa chính yếu của giáo lý Tâm-Yếu của Đại-Quảng-Trí.
330.Changchub Dorje (1745–1821), cũng được biết là Jigme Trinle Ozer, là vị Dodrupchen Rinpoche đệ nhất, một trong những đệ tử chính của Jigme Lingpa, và là người đã từ bi gia hộ cho Patrul Rinpoche khi còn bé.
331.Orgyen Jigme Chokyi Wangpo là tên riêng của Ngài Patrul Rinpoche. Lời tự khẩn nguyện trong đoạn này noi theo một hình thức truyền thống. Tuy nhiên lời nguyện này có một sức mạnh đặc biệt phát xuất từ Ngài Patrul Rinpoche, là một người đã cho ta thấy một sự khiêm cung tương tự, toát ra từ trong cách sống của Ngài.
332. Jamgon Kongtrul Vĩ Đại (xem Thuật Ngữ) là một vị Đạo Sư cùng thời với Ngài Patrul Rinpoche và Jamyang Khyentse Wangpo; cả ba vị đều biết nhau rất rõ, cùng học vào lúc thiếu thời tại tu viện Shechen ở tỉnh Kham. Ngài là nhà trước tác trứ danh, đã biên soạn và biên tập nhiều tác phẩm, và Ngài đã viết thêm lời bạt này sau khi hiệu đính theo đúng nguyên văn trong nguyên cảo của Patrul Rinpoche, trong khi tài liệu này đang được chuẩn bị in bản khắc gỗ tại nhà in lớn ở Derge.
333. Sáu phương cách để đạt được giải thoát (grol ba drug): qua sự nhìn thấy, lắng nghe, hồi nhớ, xúc chạm, nếm vị và trang phục.

Trả lời với trích dẫn