Lời vàng của thầy tôiTIỂU SỬ PATRUL RINPOCHE__________________________________________________ ______________________________________
Các tác phẩm của Ngài được thu thập trong sáu quyển sách, về Đại Viên Mãn, Mật điển, Kinh điển, lời chỉ dạy, thi ca, và kịch tác. Các tác phẩm lừng danh của Ngài là những giáo huấn công phu về thực hành chuẩn bị của Longchen Nyingthig, có tựa đề là Những Lời Dạy Từ Kim Khẩu Của Lạt Ma Phổ Hiền (Lời Vàng Của Thầy Tôi); một giáo huấn ngắn gọn nhưng kỳ diệu về thiền định Đại Viên Mãn, có tựa đề là Ba Lời Công Phá Những Điểm Trọng Yếu, và một bình giảng về Abhisamayalamkara.
Ở miền Đông Tây Tạng, có lẽ Patrul là người có công lao to lớn nhất trong việc giúp cho Bodhicharyavatara (Nhập Bồ Tát Hạnh) trở thành một cẩm nang cho nhiều tu sĩ; Lời Nguyện Khát Khao Được Tái Sinh Trong Cõi Tịnh Độ Cực Lạc Của Đức Phật A Di Đà thành một lời nguyện hàng ngày cho nhiều cư sĩ; giúp cho Guhyagarbha-mayajala-tantra trở thành nền tảng của truyền thống Mật Thừa Nyingma; giúp cho các giáo lý Đại Viên Mãn không chỉ là một truyền thống dựa trên văn tự mà là một chứng ngộ thiền định; và trên tất cả, giúp cho OM MANI PADME HUM trở thành như hơi thở bất tận của nhiều người.
Trong số những hóa thân của Ngài có Jigme Wangpo xứ Dzagya Gon và Namkha Jigme xứ Dzachukha, một nam tử của Dudjom Lingpa.
Tiểu sử của Patrul Rinpoche được trích từ tập sách “Masters of Meditation and Miracles – Lives of the Great Buddhist Masters of India and Tibet” do đại sư Tulku Thondup biên soạn. Thanh Liên chuyển Việt ngữ.
1 Trong nguyên tác, Tulku Thondup, tác giả của bản tiểu sử này đã viết là Paltrul (thay vì Patrul như trong quyển “The Words of My Perfect Teacher - Lời Vàng Của Thầy Tôi”). Sở dĩ có sự khác biệt này là do cách phát âm khác nhau của các địa phương ở Tây Tạng. Chúng tôi xin mạn phép viết là Patrul để thống nhất với bản dịch quyển “Lời Vàng của Thầy Tôi”.
2 Rabjung: chu kỳ 60 năm. Rabjung thứ nhất bắt đầu từ năm 1027 sau Công nguyên.