Lời vàng của thầy tôi
TIỂU SỬ PATRUL RINPOCHE
__________________________________________________ ______________________________________


Trước tiên, Patrul và Nyoshul Lungtok, người sống gần Patrul và học với Ngài trong hai mươi tám năm, sống đơn độc tại rừng Ari trong sáu tháng. Một túi tsampa nhỏ làm lương thực, y phục khoác trên người, và đôi ba quyển sách là những vật sở hữu duy nhất của các ngài. Vào giữa trưa họ họp lại và dùng một ít tsampa. Sau đó họ buộc miệng túi tsampa vào một gốc cây và để nó ở đó cho tới ngày hôm sau. Sau đó, Patrul giảng cho Lungtok đôi câu kệ trong Bodhicharyavatara (Nhập Bồ Tát Hạnh). Rồi khoác mảnh vải trắng rách rưới là y phục duy nhất của Ngài, với một chiếc gậy trong tay, Patrul biến mất vào rừng, nói to, Ha! Ha! Ha! như một pháp tu thiền định. Buổi trưa hôm sau họ lại cùng nhau tụ họp và làm những việc tương tự.

Chẳng bao lâu, nhiều đệ tử đến rừng Ari, và Patrul bắt đầu giảng dạy Semnyi Ngalso, Yonten Dzo và những giáo lý khác. Patrul Rinpoche ban giáo lý và sau đó các đệ tử thiền định về các giáo lý ấy ở trong rừng. Bởi không chú tâm nhiều vào việc tổ chức cuộc sống nên họ có rất ít thực phẩm để dùng. Mặc dù ở trong rừng rậm nhưng cũng không có rau trái có thể ăn được. Loại trà họ uống rất đặc và ngon khi pha lần đầu với lá trà tươi; nhưng sau đó họ cứ đổ thêm nước vào trà cũ khiến trà càng lúc càng lạt đi và mất màu. Họ đùa bỡn về độ đậm lạt khác nhau của trà, gọi đó là trà “ba thân.” Trà đặc là trà của Hóa Thân phức tạp, trà lạt là trà của Báo Thân mộc mạc, và trà vô vị là trà của Pháp Thân mang tánh không rỗng rang. Patrul nhận ra rằng tài sản và những thuận duyên, chẳng hạn thực phẩm ê hề, y phục hảo hạng, chỗ ở tiện nghi, những lời tán tụng và tiếng tăm là những chướng ngại hơn là sự hỗ trợ cho tiến bộ tâm linh. Ngài viết:

Đau khổ thì tốt và hạnh phúc thì không tốt.
Hạnh phúc làm năm độc của dục vọng thêm lẫy lừng .
Đau khổ khiến ác nghiệp tích lũy trong quá khứ bị cạn kiệt.
Đau khổ là năng lực gia trì của Lạt Ma.
Chỉ trích thì tốt và tán tụng thì không tốt.
Nếu tôi được tán tụng, tôi sẽ phình lớn sự kiêu mạn.
Nếu tôi bị chỉ trích, lỗi lầm của tôi sẽ được phơi bày.
Nghèo khó thì tốt và thịnh vượng thì không tốt.
Thịnh vượng tạo thêm những thống khổ ghê gớm của việc mưu sinh và duy trì nó.
Nghèo khó mang lại sự dâng hiến và thành tựu Thánh Pháp.


Sau đó Patrul đi tới tu viện Dzamthang, một trung tâm vĩ đại của học phái Jonang. Ở đó Ngài thuyết giảng về Uttaratantra (Đại Thừa Tối Thượng Mật điển) dựa trên những giải thích của Kunkhyen Dolpo. Tại Minyak Ngài gặp Dra Geshe Tsultrim Namgyal, một học giả vĩ đại phái Geluk, người rất kinh ngạc trước sự uyên bác của Patrul. Tại tu viện Gyaphak, Ngài ban các quán đảnh và giáo lý Longchen Nyingthig viên mãn, là giáo lý Ngài hiếm khi truyền dạy. Tại Golok, Ngài điều phục những kẻ trộm cướp phóng túng và những thợ săn hung ác bằng năng lực của sự hiện diện và ngôn từ phù hợp lẽ phải của ngài. Tại Marung Ngài dạy dân chúng nhắc lại ngôn từ của lòng bi mẫn OM MANI PADME HUM, bởi thậm chí họ không biết đọc câu minh chú đó ra sao. Sau đó Ngài trở về rừng Ati trong thung lũng Do và ở đó một thời gian.