DIỄN ĐÀN PHẬT PHÁP THỰC HÀNH - Powered by vBulletin




Cùng nhau tu học Phật pháp - Hành trình Chân lý !            Hướng chúng sinh đi, hướng chúng sinh đi, để làm Phật sự không đối đãi.


Tánh Chúng sinh cùng Phật Quốc chỉ một,
Tướng Bồ Đề hóa Liên hoa muôn vạn.

Trang 48/49 ĐầuĐầu ... 3846474849 CuốiCuối
Hiện kết quả từ 471 tới 480 của 487
  1. #471
    Ban Điều Hành Avatar của hoangtri
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.234
    Thanks
    740
    Thanked 630 Times in 296 Posts
    Lời vàng của thầy tôi
    THUẬT NGỮ
    __________________________________________________ ______________________________________


    Một mục đích hai lợi lạc (Two-fold goal) – don gnyis, mục đích, lợi ích hay hạnh phúc (rang don) của riêng ta, và mục đích, lợi ích hay hạnh phúc của những chúng sinh khác (gzhan don). Thường được hiểu trong ý nghĩa tối hậu rằng mục đích cho bản thân sẽ đạt được nhờ chứng ngộ tánh Không hay Pháp Thân, và mục đích cho các chúng sinh khác sẽ đạt được nhờ vào lòng Bi mẫn hoá hiện như Sắc Thân.

    Mười hai thể loại giảng dạy trong Tam Tạng (Thập nhị bộ kinh, Thập nhị phần giáo) – sde snod bcu gnyis, nghĩa đen: mười hai Tạng, cũng gọi là Mười hai Thuyết Ngôn Tuyệt Hảo (gsung rab yan lag bcu gnyis). Mười hai thể loại giảng dạy do Đức Phật tuyên thuyết tương ứng với mười hai loại Kinh: Khế Kinh (mdo sde, Phạn: sutra), Trùng tụng (dbyangs bsnyan, geya), Thọ ký (lung bstan, vyakarana), Phúng tụng (tshigs bcad, gatha), Tự thuyết (ched brjod, udana), Nhân duyên (gleng gzhi, nidana), Tự truyện (skyes rab, jataka), Vị tằng hữu (rmad byung, adbhutadharma), Luận nghĩa (gtan babs, upadesa), Ẩn dụ (rtogs brjod, avadana), Bản sự (de ltar byung, itivrittaka), và Phương quảng (shin tu rgyas pa, vaipulya).

    Mười hai giới khổ hạnh (Hạnh đầu đà) – sbyangs pa’i yon tan bcu gnyis, Phạn: dvadasadhutaguna, mười hai giới thực hành khổ hạnh của các Thanh Văn và Phật Độc Giác, chẳng hạn như ngày ăn một bữa, sống ở nơi cô tịch, chỉ sở hữu ba tăng y, v.v..

    Mười Hai Tiếng Cười Kim Cương – rdo rje gad mo bcu gnyis, một giáo lý của Đại Viên Mãn.

    Mười phương (thập phương) – phyogs bcu, bốn phương chính, bốn phương trung gian, phương trên (thượng phương) và phương dưới (hạ phương).

    Mục Kiền Liên (Maudgalyayana) – mo’u ‘gal gyi bu, một trong hai đệ tử Thanh Văn nổi tiếng nhất của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Ngài được coi là bậc có oai lực thần thông vĩ đại nhất.

    Nada – được định nghĩa là chos nyid kyi rang sgra, âm thanh tự nhiên của Pháp Tánh (dharmata). Trong âm tự hum, nada được tượng trưng bởi một ngọn lửa nhỏ nằm phiá trên vòng tròn ở trên đỉnh, biểu tượng cho trạng thái giác ngộ, là giác tánh, tinh tuý độc nhất.

    Naga (Long, Rồng) – klu, một sinh loài giống như rắn sống sâu dưới nước hay dưới mặt đất. Mặc dù có các năng lực kỳ diệu, chúng được xếp vào loài súc sinh. Xem Tam giới hay ba cõi.

    Nagarjuna (Long Thọ) – klu sgrub (thế kỷ thứ 1-2), Đạo Sư Ấn Độ, một trong Sáu Pháp Bảo. Ngài giảng dạy giáo lý Trung Đạo và biên soạn nhiều luận thuyết triết học và y học.

    Nalanda – nơi sinh trưởng gần Rajagriha của đệ tử của Đức Phật là Ngài Xá Lợi Phất, là nơi về sau trong thời của các vị vua Gupta (thế kỷ thứ 5) trở thành một trong những trung tâm tu học vĩ đại nhất của Phật Giáo Ấn Độ. Tu viện này đã bị phá huỷ khoảng năm 1200.

    Namcho Mingyur Dorje – gnam chos mi ‘gyur rdo rje, một vị khám phá được các bảo tàng Kinh (Khai mật tạng) vào thế kỷ 16.
    Nanda – dga’bo, một người em họ của Đức Phật, về sau trở thành một trong những đệ tử xuất sắc của Ngài.

    Naropa – na ro pa (1016-1100), học giả và Thành tựu giả Ấn Độ, là đệ tử của Tilopa và Đạo Sư của Dịch giả Marpa.

    Ngũ Bộ Phật – rigs lnga , Phạn: pancakula, Phật, Kim Cương, Bảo Sanh, Liên Hoa và Nghiệp Bộ. Năm Bộ Phật tượng trưng cho Chân tánh của vạn pháp. Ví dụ như, Năm Đấng Chiến Thắng là chân tánh của năm uẩn, Năm vị Phối Ngẫu của các ngài là chân tánh của năm yếu tố (ngũ đại), và năm trí tuệ là chân tánh của năm độc, và v..v..

    Om Mani Padme Hum !

  2. #472
    Ban Điều Hành Avatar của hoangtri
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.234
    Thanks
    740
    Thanked 630 Times in 296 Posts
    Lời vàng của thầy tôi
    THUẬT NGỮ
    __________________________________________________ ______________________________________


    Năm con đường – lam lnga, Phạn: pancamarga, năm giai đoạn liên tiếp trên con đường tu dẫn tới Giác ngộ: con đường vun bồi công đức, con đường hợp nhất, con đường của cái thấy (kiến), thiền định, và con đường siêu việt sở học.

    Năm khoa học (Ngũ minh) – rig gnas lnga, Phạn: pancavidya, năm khoa học mà một đại học giả (pandita) phải thông suốt: 1) sự chế tạo của các sự vật (gzo rig gnas, silpavidya), 2) tu sửa các sự vật (bao gồm y khoa; gso ba’i rig gnas, cikitsavidya), 3) ngữ văn (sgra’ rigs gnas, Sabdavidya), 4) luận lý học (gtan tshigs kyi rig gnas, hetuvidya) và 5) triết học (nang don rig gnas, adhyatmavidya).

    Năm năng lực – xem năng lực.

    Năm độc (Ngũ độc) – dug lnga, năm cảm xúc tiêu cực: 1) si, gti mug, Phạn. moha (AT: sự vô minh, lầm lạc), 2) tham, ‘dod chags, raga (AT: dục vọng), 3) sân, zhee sdang, dvesa (bao gồm sự thù ghét, giận dữ, v.v..), 4) ganh tị, phra dog, irsya, và 5) kiêu ngạo, nga rgyal, mana.

    Năm mật nguyện thọ dụng – dang du slang ba’i dam tshig lnga, năm mật nguyện (samaya) phụ thuộc trong pháp tu Đại Viên Mãn. Những mật nguyện này có liên quan tới sự vui hưởng năm loại thịt và năm chất cam lồ, là những chất thể được các hành giả Mật Thừa sử dụng mà thông thường được coi là bất tịnh hay bị cấm kỵ.

    Năm suy hoại – snyigs ma lnga, đó là sự suy hoại của 1) thọ mạng 2) các cảm xúc tiêu cực (năm độc tăng trưởng) 3) chúng sinh (khó có thể cứu giúp họ) 4) thời đại (chiến tranh và nạn đói kém phát triển) 5) quan niệm (các niềm tin sai lạc lan tràn).

    Năm Thân Phật (kaya) – sku lnga, Phạn: pancakaya, ba Thân Phật được cộng thêm vào với Thân Kim Cương Bất Biến (mi ‘gyur rdo rje’i sku, Phạn: vajrakaya) và Thân Toàn Giác (mngon par byang chub pa’i sku, Phạn: abhisambodhikaya). Thành ngữ này cũng có thể ám chỉ năm Bộ Phật: thân, ngữ, ý, các phẩm hạnh và hoạt động của chư Phật. Xem ngũ bộ Phật.

    Năm trọng tội có quả báo tức thời (ngũ nghịch trọng tội hay trọng nghiệp) – mtshams med lnga, Phạn: pancanantariya, 1) giết cha hay 2) giết mẹ hay 3) giết một vị A La Hán; 4) gây chia rẽ trong Tăng Đoàn; 5) làm một vị Phật chảy máu với sự ác ý (hay báng bổ, làm dơ bẩn hình tượng Phật). Những người mắc phạm một trong năm hành vi này bị tái sinh lập tức trong Địa ngục Vô Gián sau khi chết mà không kinh qua trạng thái trung gian.

    Năm nghiệp tội gần như trọng tội (gần như trọng nghiệp) – nye ba’i mtshams med lnga, 1) hành xử bất tịnh với một vị nữ A La Hán; 2) giết hại một vị Bồ Tát; 3) giết hại hành giả đang tu tập hướng tới Phật Quả; 4) trộm cắp tài sản của Tăng Đoàn; 4) phá huỷ bảo tháp (stupa).

    Năm trăm ngàn pháp tu dự bị – ‘bum lnga, năm pháp tu dự bị theo truyền thống: Quy y, Bồ Đề Tâm, Kim Cương Tát Đoả (Vajrasattva), Mạn đà la và Bổn Tôn Du Già (Guru yoga); mỗi pháp tu phải được thực hiện một trăm ngàn lần.

    Năm yếu tố toàn hảo – phun sum tshogs pa lnga, vị Thầy toàn hảo, giáo lý toàn hảo, nơi chốn toàn hảo, chúng đệ tử toàn hảo và thời gian toàn hảo.

    Ngũ độc – xem năm độc.

    Ngũ trí (năm trí) – ye shes lnga, năm phương diện trí tuệ của Phật Quả: Trí tuệ của Pháp Giới tối thượng (Pháp Giới Thể Tánh Trí, chos dbyings kyi ye shes, Phạn: dharmadhatujnana), Trí tuệ như tấm gương (Đại Viên Cảnh Trí, mee long gi ye shes, adarsajnana), Trí tuệ bình đẳng (Bình Đẳng Tánh Trí, mnyam nyid kyi ye shes, samatajnana), Trí tuệ biết phân biệt (Diệu Quan Sát Trí, so sor rtog pa’i ye shes, pratyaveksanajnana), và Trí tuệ hoàn toàn thành tựu (Thành Sở Tác Trí, bya ba grub pa’i ye shes, krityanusthanajnana). Xem ngũ bộ.

    Om Mani Padme Hum !

  3. #473
    Ban Điều Hành Avatar của hoangtri
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.234
    Thanks
    740
    Thanked 630 Times in 296 Posts
    Lời vàng của thầy tôi
    THUẬT NGỮ
    __________________________________________________ ______________________________________


    Năng lực – rlung, Phạn: prana, vayu, nghĩa đen: gió (khí). Đặc tính của gió là “nhẹ và chuyển động.” Tâm được mô tả như cưỡi trên gió rung giống như một kỵ sĩ trên lưng ngựa. Năm loại gió rlung khác nhau giúp điều chỉnh các chức năng của thân: 1) năng lực đi lên (gyen rgyu), 2) năng lực đẩy xuống (thur sel), 3) năng lực nồng nhiệt (me mnyam), 4) năng lực toàn-khắp (khyab byed) và 4) sinh lực tức năng lực duy trì sự sống (srog ‘dzin).

    Ngạ quỷ – xem preta.

    Nghiên cứu (văn) – thos pa, nghĩa đen: lắng nghe. Theo truyền thống, lắng nghe giáo lý là cách thức chính yếu để học tập ở Tây Tạng. Trước khi nghiên cứu một bản văn, điều quan trọng là phải thọ nhận lời dạy của vị Thầy qua tai bằng cách thực sự lắng nghe Pháp ngữ của vị Thầy. Như thế, “nghiên cứu” không chỉ thuần tuý là việc đọc một bản văn.

    Nghiệp (Karma) – las. Chúng ta thường thích nói “kết quả của các hành động,” “hành động và kết quả” hay “nguyên lý nhân quả.” Theo nghĩa đen, Nghiệp chỉ có nghĩa đơn thuần là “hành động,” nhưng thường được dùng một cách rộng rãi để chỉ những kết quả do các hành vi trong quá khứ tạo nên (las kyi ‘bras bu, Phạn: karmaphala).

    Nghiệp chướng – las kyi sgrib pa, Phạn: karmavarana, các che chướng hay chướng ngại gây ra bởi các hành vi tiêu cực. Xem chướng ngại.

    Nghiệp lực – las kyi rlung, năng lực do nghiệp chiêu cảm quyết định, đối nghịch với ye shes kyi rlung, năng lực kết hợp với trí tuệ.

    Ngondro – xem các pháp tu dự bị.

    Ngũ nghịch trọng tội – xem năm trọng tội có quả báo tức thời.

    Nguyên lý nhân quả – las rgyu ‘bras, nghĩa đen: hành vi, nhân và quả… Trong tiến trình nhân quả này, mỗi hành vi tạo ra một kết quả tương ứng. Xem nghiệp.

    Nhân quả – xem nguyên lý nhân quả hay nghiệp.

    Nhất Lai Vương Phật (Once-Come King) – sngon byung gi rgyal po, Đức Phật của kiếp (Kalpa) đầu tiên.

    Nhị nguyên – gnyis ‘dzin, nghĩa đen: sự bám chấp, đối đãi, thấy có hai, Quan niệm về “ta” và “người.”

    Như Lai – xem Tathagata.

    Như nhiên – ma bcos pa, Phạn: naisargika, để yên trong trạng thái nguyên sơ, không cố tình thay đổi hay tạo tác.

    Như thị – de bzhin nyid, Phạn: tathata, “bản tánh của vạn pháp, tánh Không.” DKR.

    Nhục kế – gtsug tor, Phạn: usnisa, chỗ nhô lên trên đầu một vị Phật, một trong ba mươi hai tướng chính.

    Niết bàn (Nirvana) – mya ngan las ‘das pa, trạng thái siêu vượt đau khổ. Ý niệm về Niết Bàn không giống nhau trong Thanh Văn Thừa, Đại Thừa và Kim Cương Thừa.

    Núi Huy Hoàng Màu Đồng Đỏ – zangs mdod dpal ri, một cõi Phật do Đức Liên Hoa Sanh (Padmasambhava) hoá hiện, Ngài tới đó khi rời Tây Tạng và hiện vẫn an trụ ở đó.

    Núi Tu Di (Meru) – ri rgyal po ri rab, ngọn núi vĩ đại, đỉnh núi rộng lớn hơn chân núi, bốn trung châu (lục địa) của thế giới ấy được bố trí quanh núi, phù hợp với khoa vũ trụ học của Ấn Độ thời cổ.

    Nyingmapa – xem Cựu Dịch, Cựu Phái Dịch Thuật.

    Oddiyana – o rgyan, một trụ xứ của các Nữ Không Hành (dakini) là nơi đản sinh của Đức Liên Hoa Sanh (Padmasambhava). Theo một vài tài liệu thì nơi đây được xác định là ở giữa Afghanistan và Kashmir ngày nay. Đây cũng là nơi sinh ra đời của Garab Dorje. Việc dùng từ “Oddiyana” gắn liền với các danh hiệu chẳng hạn như “Đấng Vĩ Đại,” “Đức Phật Thứ Hai,” “Đạo Sư Vĩ Đại,” và v.v. luôn luôn ám chỉ Đức Liên Hoa Sanh.

    Orgyenpa (Rinchen Pal) – o rgyan pa rin chen dpal (1230¬1309), một đại thành tựu giả của truyền thống Drukpa Kagyu, đệ tử của Gotsangpa. Ngài du hành khắp nơi, thăm viếng Oddiyana, Bồ Đề Đạo Tràng (Bodhgaya) và Trung Hoa. Trong số các đệ tử của Ngài có các vị Karmapa Rangjung Dorje, Kharchupa và Dawa Senge.

    Ô nhiễm (hành vi) – zag bcas, Phạn: sasrava, được làm với ba ý niệm (tạo tác) về chủ thể, đối tượng và hành động.

    Om Mani Padme Hum !

  4. #474
    Ban Điều Hành Avatar của hoangtri
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.234
    Thanks
    740
    Thanked 630 Times in 296 Posts
    Lời vàng của thầy tôi
    THUẬT NGỮ
    __________________________________________________ ______________________________________


    Padampa Sangye – pha dam pa sangs rgyas (thế ky1-12), Thành tựu giả Ấn Độ lập nên giáo lý của phái Shijepa (zhi byed pa). Ngài là Đạo sư của Machik Labdron, Ngài đã trao truyền cho Bà giáo lý Chư. Ngài đã du hành tới Tây Tạng vài lần.

    Padma – danh hiệu mà Đức Liên Hoa Sanh (Padmasambhava) dùng để chỉ chính mình. Padma có nghĩa là “hoa sen.”
    Padma Thotreng – padma thod phreng rtsal, nghĩa đen: Hoa sen đeo vòng hoa sọ người. Một trong những danh hiệu của Đức Liên Hoa Sanh (Padmasambhava).

    Padmasambhava xứ Oddiyana (Liên Hoa Sanh) – o rgyan padma ‘byung gnas, Đạo Sư đản sanh từ Hoa Sen ở xứ Oddiyana, Đức Liên Hoa Sanh, thường được gọi là Guru Rinpoche (Đạo Sư Tôn Quý). Trong triều đại của Vua Trisong Detsen, vị Đạo Sư vĩ đại này đã chế phục các thế lực xấu ác chống đối lại việc truyền bá Phật Giáo ở Tây Tạng, phổ biến giáo lý Phật Giáo thuộc Kim Cương Thừa ở đất nước Tây Tạng và cất dấu vô số kho tàng tâm linh vì lợi lạc của những thế hệ tương lai. Ngài được tôn kính như Đức Phật Thứ Hai mà sự xuất hiện của Ngài đã được vị Phật thứ nhất là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni phó chúc, để ban dạy các giáo lý đặc biệt của Kim Cương Thừa.

    Palmo (ni cô) – dge slong ma dpal mo, ni cô Ấn Độ nổi tiếng đã truyền bá pháp tu Nyung-ne (ăn chay một ngày, lễ lạy và giữ giới im lặng) và đạt được thành tựu siêu việt nhờ vào pháp hành trì nương nơi Đức Avalokitesvara.

    Palyul (tu viện) – dpal yul, một trong sáu đại tu viện của phái Nyingmapa.

    Pandita – một học giả, bậc uyên bác thấu suốt năm khoa học truyền thống (xem: năm khoa học – ngũ minh). Đặc biệt được dùng để ám chỉ các học giả Ấn Độ.

    Paramita – xem pháp toàn thiện siêu việt (ba la mật).

    Pháp – chos. Thuật ngữ này có một số ý nghĩa khác nhau. Trong ý nghĩa rộng lớn nhất thì Pháp có nghĩa là tất cả những gì có thể biết được (vạn pháp). Trong bản văn này thì thuật ngữ Pháp được dành riêng để chỉ giáo lý của Đức Phật (Phật Pháp). Pháp gồm có hai phương diện: Pháp của sự truyền giảng (lung gi chos), đó là những giáo lý thực sự được ban truyền, và Pháp của sự chứng ngộ (rtogs pa’i chos), hay là các trạng thái trí tuệ, v.v. là những gì đạt được nhờ vào việc áp dụng giáo lý. Pháp thường được ám chỉ là “Pháp Tối Thắng” (siêu việt) bởi Pháp có thể giải thoát chúng sinh khỏi đau khổ. Pháp (Dharma) hay chos cũng có thể chỉ đơn giản có nghĩa là “các hiện tượng” (các pháp hữu vi). Khi mang ý nghĩa này thì Pháp được dịch theo nghĩa hẹp.

    Pháp chuẩn bị, công phu chính yếu và kết thúc – sbyor dngos rjes gsum, ba phương pháp siêu việt cho bất kỳ pháp môn tu tập nào: 1) bắt đầu bằng cách kiểm soát xem ta có động lực từ bi hay không, 2) thực hành công phu mà không để cho các ý niệm hướng về của cải tài lộc xen vào, và 3) chấm dứt bằng cách hồi hướng công đức cho đạo quả giác ngộ của tất cả chúng sinh.

    Om Mani Padme Hum !

  5. #475
    Ban Điều Hành Avatar của hoangtri
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.234
    Thanks
    740
    Thanked 630 Times in 296 Posts
    Lời vàng của thầy tôi
    THUẬT NGỮ
    __________________________________________________ ______________________________________


    Pháp chuyển di (Phowa) – ‘pho ba, 1) di chuyển từ nơi này sang nơi khác, chuyển kiếp (sau khi chết). 2) pháp môn thực hành để hướng dẫn tâm thức chuyển di vào lúc chết.

    Pháp Giới – chos dbyings, Phạn. dharmadhatu, AT: thực tại trải rộng. Từ quan điểm của cái thấy chứng ngộ, mọi hiện tượng xuất hiện như là sự trải rộng của tánh Không.

    Pháp luân – chos kyi ‘khor lo, Phạn: dharmacakra, biểu tượng của Phật Pháp. Chuyển Pháp Luân có nghĩa là giảng dạy Giáo Pháp. Trong đời Ngài, Đức Phật đã tuyên thuyết ba loạt giáo lý chính yếu, được nhắc tới như là những lần chuyển Pháp Luân thứ nhất, thứ nhì và thứ ba.

    Pháp toàn thiện siêu việt (Ba la mật) – pha rol tu phyin pa, Phạn: paramita. Sáu phương pháp tu tập theo con đường của Bồ Đề Tâm hạnh. Các pháp này siêu việt bởi được đi kèm với trí tuệ của tánh Không. Cũng xem sáu pháp toàn thiện siêu việt (Lục độ ba la mật).

    Pháp trì tụng Kim Cương – rdo rje bzlas pa, trì tụng các câu minh chú trong khi phối hợp với việc hít vào, nín hơi và thở ra.

    Pháp tu dự bị (Ngondro) – sngon ‘dro. Xem năm trăm ngàn các pháp tu dự bị.

    Pháp Vương của những điều Mật diệu – gsang ba’i bdag po, một danh hiệu của Vajrapani (Kim Cương Thủ).

    Pháp Vương Toàn Giác – danh hiệu của Ngài Longchenpa.

    Phật (Buddha) – sangs rgyas, “ Người đã đoạn diệt được (sangs) bóng tối của hai chướng ngại và phát triển được (rgyas) hai trí tuệ toàn giác (thấu suốt bản tánh của hiện tượng và thấu suốt được các hiện tượng phức tạp đa dạng.) DICT.

    Phật Pháp – xem Pháp (Dharma).

    Phật Tánh – de gshegs snying po, Phạn: tathagatagarbha, tiềm năng của Phật Quả hiện diện trong mỗi chúng sinh. AT: tinh túy của Phật Quả.

    Phong trào bất bộ phái – ris med (rimé), nghĩa đen: không phân biệt. Phong trào tâm linh được phát động bởi các đại Lạt ma lừng danh Jamyang Khyentse Wangpo cũng như Jamgon Kongtrul Lodro Thaye, Mipham, Chogyur Lingpa và Patrul Rinpoche. Đặc điểm của phong trào Rimé là tôn trọng tất cả mọi giáo lý và trường phái Phật Giáo.

    Phowa – xem Pháp Chuyển Di.

    Phối ngẫu – 1) yum, nữ Hộ Phật (deity) được mô tả trong sự hợp nhất với một nam Hộ Phật (yab). Bà tượng trưng cho trí tuệ bất khả phân với phương tiện thiện xảo, được tượng trưng bởi nam Hộ Phật. Các Ngài cũng tượng trưng cho Pháp Giới của tánh Không, bất khả phân với giác tánh. 2) gsang yum, nghĩa đen: bà mẹ bí mật. Vợ của một đại Lạt Ma.

    Phước đức – bsod nams, Phạn: punya, thiện nghiệp, năng lực được phát sinh bởi các hành vi thiện lành của thân, ngữ và ý.
    Phướn Toàn Thắng – phyogs las rnam par rgyal ba’I rgyal mtshan, một trong tám dấu hiệu tốt lành. Phướn này tương ứng với thân Phật và tượng trưng cho tính chất bất khả hoại của Giáo lý của Ngài.

    Phương – xem mười phương.

    Phương tiện – thabs, xem phương tiện thiện xảo.

    Om Mani Padme Hum !

  6. #476
    Ban Điều Hành Avatar của hoangtri
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.234
    Thanks
    740
    Thanked 630 Times in 296 Posts
    Lời vàng của thầy tôi
    THUẬT NGỮ
    __________________________________________________ ______________________________________


    Phương tiện nghĩa – drang don, Phạn: neyartha, ám chỉ các giáo lý với ý định thích hợp để dẫn dắt chúng sinh chưa chứng ngộ đến được với chân lý của ý nghĩa rốt ráo hay chân nghĩa.

    Phương tiện thiện xảo – thabs, Phạn: upaya, hoạt động tự nhiên, vị tha, phát sinh từ trí tuệ.

    Pitaka (Tạng) – xem Tam Tạng (Tripitaka).

    Pitaka (thứ tư) – sde snod bzhi pa, pitaka (Tạng) của Mật Thừa.

    Potowa, (Geshe) – po to ba (1031-1105), một trong Ba Anh em, ba đệ tử nổi tiếng của Drom Tonpa (vị sáng lập phái Kadampa).

    Pratyekabuddha – xem Độc Giác Phật.

    Preta (ngạ quỹ) – yi dvags, AT: tinh linh đói khát, tinh linh, quỷ đói.

    Puchungwa, (Geshe) – phu chung ba, một trong Ba Anh em.

    Purnakasyapa – od srung rdzogs byed, một Đạo sư thủ lãnh những kẻ ngoại đạo (tirthika) vào thời Đức Phật.

    Quả (kết quả của hành nghiệp) – las rgyu ‘bras, Phạn: phala. Xem nghiệp (karma).

    Quả chín muồi (Quả báo thành thục) – rnam smin gyi ‘bras bu, Phạn: vipakaphala, thời điểm một hành nghiệp trổ quả cực đại, ví dụ như phải bị đoạ sanh vào trong Địa ngục.

    Quả trổ sanh nghiệp cảnh
    – dbang gi ‘bras bu, tác dụng của các hành nghiệp báo ứng vào hoàn cảnh sống của ta trong một đời tương lai.

    Quả vị hợp nhất – zung ‘jug gi go ‘phang, quả vị của Kim Cương Trì (Vajradhara). Sự hợp nhất của Pháp Thân và Sắc Thân.

    Quan Âm – xem Tara. Quán – xem minh sát. Quán đảnh – dbang bskur, Phạn: abhiseka, nghĩa đen: trao truyền năng lực (gia lực). Sự cho phép nghe, nghiên cứu và thực hành giáo lý Kim Cương Thừa. Việc này xảy ra trong một nghi lễ có thể hết sức phức tạp hoặc hoàn toàn đơn giản. Xem bốn quán đảnh.

    Quán đảnh bí mật – gsang dbang. Quán đảnh thứ nhì, “quán đảnh tịnh hoá những ô nhiễm của ngữ (khẩu), khiến ta có thể thiền định về các kinh mạch và năng lực, có thể trì tụng các câu mật chú, và gieo trồng hạt giống để đạt được ngữ (khẩu) kim cương và Báo Thân.” DICT.

    Quán đảnh tịnh bình – bum dbang, quán đảnh thứ nhất “tịnh hoá các ô nhiễm của thân, khiến ta có thể thiền định về giai đoạn phát triển và gieo trồng hạt giống để đạt được thân kim cương và Hoá Thân.”

    Quán đảnh quả vị – ‘bras bu’i dbang, quán đảnh xảy ra vào lúc đạt được giác ngộ viên mãn.

    Quán đảnh ngôn từ quý báu – tshig dbang rin po che, quán đảnh thứ tư “quán đảnh diệt trừ những ô nhiễm của thân, ngữ, ý và các tập khí (các khuynh hướng quen thuộc), khiến ta có thể thiền định về Đại Viên Mãn bẩm sinh và gieo trồng hạt giống để đạt được trí tuệ kim cương và Thân Tự Tánh.” DICT.

    Quán đảnh trí tuệ
    – shes rab kyi dbang, quán đảnh thứ ba “tịnh hoá các ô nhiễm của tâm, giúp cho ta có khả năng thiền định về giai đoạn toàn thiện và gieo trồng hạt giống để đạt được tâm kim cương và Pháp Thân.” DICT.

    Quán Thế Âm (Quán Tự Tại) – xem Avalokiteshvara hay Đấng Đại Từ Đại Bi hay Đấng Bi Mẫn Siêu Phàm.

    Quảng đại (Rộng lượng) – sbyin pa, Phạn: dana, nghĩa đen: bố thí.

    Quy y – 1) skyabs yul, đối tượng mà ta quy y. 2) skyabs ‘gro, sự thực hành quy y.

    Repa Shiwa O – ras pa zhi ba ‘od, một trong những đệ tử chính của Milarepa.

    Rinchen Zangpo – rin chen bzang po (958-1055), dịch giả nổi tiếng nhất trong công cuộc truyền bá Phật Giáo lần thứ hai ở Tây Tạng, khi phái Tân Dịch bắt đầu.

    Risi – drang srong, 1) nhà hiền triết, ẩn sĩ, thánh nhân, đặc biệt là những hiền triết nổi tiếng của thần thoại Ấn Độ, là những vị trường thọ và có oai lực thần thông vĩ đại. 2) tên của một chòm sao.

    Om Mani Padme Hum !

  7. #477
    Ban Điều Hành Avatar của hoangtri
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.234
    Thanks
    740
    Thanked 630 Times in 296 Posts
    Lời vàng của thầy tôi
    THUẬT NGỮ
    __________________________________________________ ______________________________________


    Ruộng công đức – tshogs zhing, trọng tâm, hoặc đối tượng của việc cúng dường, quy ngưỡng, cầu nguyện, lễ lạy, v..v. của ta, qua đó ta có thể thực hiện các pháp tích tập công đức và trí tuệ cần thiết. Thuật ngữ thường hàm ý một trọng tâm được quán tưởng trong các pháp môn hành trì chẳng hạn như quán tưởng các Bổn Tôn quy y, vị Thầy trong pháp Bổn Sư Du Già, v.v… Công phu hành trì và các hành động tốt lành của ta nếu được hướng tới một hiện thân như thế của Phật, Pháp và Tăng, sẽ đem lại cho công phu của ta một năng lực to lớn hơn thế nữa.

    Sa di – dge tshul, Phạn: sramanera. Một sa di có ít giới để giữ hơn một vị sư thọ cụ túc giới (dge slong, Phạn: bhiksu, Tỳ kheo).

    Sadaprarudita (Thường Đề Bồ Tát) – rtag tu ngu, một vị Bồ Tát mà danh hiệu có nghĩa là “Luôn Luôn Than Khóc”, vì lý do Ngài đã phải đổ lệ khi tìm cầu giáo lý Trí tuệ Bát nhã.

    Sắc Thân (Rupakaya) – gzugs sku, Thân của sắc tướng, bao gồm Báo Thân và Hoá Thân cùng một lúc.

    Sakyapa – sa skya pa, một trong các trường phái của Truyền Thống Mới do Ngài Khon Konchok Gyalpo sáng lập (1034-1102).

    Samantabhadra (Phổ Hiền) – kun tu bzang po, 1) Đức Phật nguyên thuỷ (Adibuddha), Đấng không bao giờ rơi vào mê lầm, Đức Phật Pháp Thân hiện thân là một nhân vật trần trụi, sắc xanh dương đậm như bầu trời, trong sự hợp nhất với Samantabhadri, như một biểu tượng của giác tánh,tánh Không, bản tánh thuần tịnh, tối thượng, luôn luôn hiện diện và không bị ngăn che. Suối nguồn của dòng truyền thừa Mật điển của trường phái Nyingma. 2) Đại Bồ Tát Samantabhadra (Phổ Hiền), một trong Tám Pháp Vương Tửû (của Đức Phật Thích Ca), mà qua oai lực thiền định, Ngài nổi danh về phương thức làm gia tăng bội phần những phẩm vật cúng dường do Ngài dâng cúng một cách thật thần diệu.

    Samaya (Mật nguyện) – dam tshig, nghĩa đen: hứa nguyện, thệ nguyện. Mối liên kết thiêng liêng giữa Thầy và trò, và giữa các đệ tử với nhau trong Kim Cương Thừa. Từ Phạn ngữ samaya có thể có nghĩa là: thoả thuận, cam kết, quy ước, giới luật, ranh giới, v.v... Mặc dù có nhiều luật lệ rất chi tiết, nhưng samaya tối quan trọng là coi thân, ngữ và ý của vị Thầy là cái gì vô cùng thanh tịnh.

    Samsara (Luân hồi) – ‘khor ba, vòng luân hồi trong đó ta bị xô đẩy không ngưng nghỉ bởi những cảm xúc tiêu cực và bởi nghiệp lực của những hành vi tạo tác của chính ta, đưa ta từ một trạng thái tái sinh này tới trạng thái tái sinh khác.

    Samvarasara – bde mchog snying po, một trong những danh hiệu của Manjusri (Văn Thù Bồ Tát).

    Samye – bsam yas, tu viện đầu tiên ở Tây Tạng, trong thung lũng Tsangpo miền đông nam thủ đô Lhasa, được xây dựng trong thời Vua Trisong Detsen. Tên này có nghĩa là “không thể nghĩ bàn.”

    Samye Chimpu – bsam yas mchims phu, tên của một tập hợp các tu viện nằm ở trên sườn núi của Tu viện Samye, nơi nhiều Đại Đạo sư Phật Giáo đã đạt được thành tựu.

    Sang Rinpoche – bla ma zhang rin po che (brtson ‘grus grags pa) (1121-1193), một đại Lạt ma dòng truyền thừa Kagyupa , vị sáng lập phân phái Tsalpa Kagyu.

    Sankara – bde byed, ví dụ về một người mà dục vọng và sự thù ghét của ông ta mạnh tới nỗi giết chết mẹ mình. Ông hối hận và sau khi tịnh hoá những ác hạnh của mình, ông đã được tái sinh ở một cõi Trời.

    Om Mani Padme Hum !

  8. #478
    Ban Điều Hành Avatar của hoangtri
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.234
    Thanks
    740
    Thanked 630 Times in 296 Posts
    Lời vàng của thầy tôi
    THUẬT NGỮ
    __________________________________________________ ______________________________________


    Santaraksita (Tịch Hộ) – zhi ba mtsho, cũng được gọi là Bồ Tát Tu viện trưởng. Vị học giả (pandita) Ấn Độ vĩ đại của Đại Thừa này là tu viện trưởng của Đại Học Viện Phật Giáo Nalanda và là tác giả của một số các luận giảng triết học, chẳng hạn như Vật Trang hoàng của Trung Đạo (dbu ma rgyan, Phạn: Madhyamakalmkara-karika). Ngài được Vua Trisong Detsen mời tới Tây Tạng để hiến cúng địa điểm của tu viện Tây Tạng đầu tiên ở Samye và ban giới cho những Tăng sĩ đầu tiên ở Tây Tạng.

    Santideva (Tịch Thiên) – zhi ba lha (thế kỷ thứ 7), thi sĩ vĩ đại và đại thành tựu giả Ấn Độ, là người đã làm kinh ngạc các tu sĩ của tu viện Nalanda của Ngài bằng bài kệ nổi tiếng về pháp tu Bồ Đề Tâm, Bodhicaryavatara (spyod ‘jug), hay Nhập Bồ Tát Hạnh.

    Saraha – sa ra ha, đại thành tựu giả Ấn Độ, tác giả của ba giáo khoá của các bài đạo ca (doha).

    Sarvanivaranaviskambhin (Trừ Cái Chướng Bồ Tát)– sgrib pa rnam sel, một trong Tám Trưởng Tử của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.

    Sastra (Luận) – bstan bcos, luận giảng về giáo lý của Đức Phật.

    Sattvavajra (Tát Đoả Kim Cang) – sems dpa’ rdo rje, một danh hiệu được ban cho Đức Kim Cang Thủ (Vajrapani).

    Sáu cõi luân hồi – ‘gro drug, Phạn: sadgati, sáu phương cách hiện hữu được tạo ra và bị thống trị bởi một độc tố đặc biệt trong tâm: cõi Địa ngục (sân), cõi Ngạ quỷ (keo kiệt), cõi Súc sinh (si mê), cõi Người (tham ái), cõi Bán Thiên (demi-gods) hay A tu la (ganh tị), và cõi Trời (kiêu ngạo). Các cõi này tương ứng với những tri kiến mê lầm được tạo nên bởi nghiệp (karma) của chúng sinh và được nhận thức như thật có. Người ta cũng nói năm cõi, tính chung chư Thiên và bán Thiên vào một cõi.

    Sáu loại chúng sinh – ‘gro drug, xem sáu cõi luân hồi.

    Sáu thức (lục thức) – rnam shes tshogs drug, Phạn: sadvijnanakaya, nghĩa đen: sáu sự tập hợp của thức, nghĩa là sự tập hợp của đối tượng giác quan (trần), của giác quan (căn) và của thức. Chúng là nhãn thức (nhìn), nhĩ thức (nghe), tỉ thức (ngửi), thiệt thức (nếm), xúc thức (chạm) và ý thức.

    Sáu pháp toàn thiện siêu việt (lục độ ba la mật) – pha rol tu phyin pa drug, Phạn: sad paramita: bố thí siêu việt (dana¬paramita), giới luật siêu việt (Sila-paramita), nhẫn nhục siêu việt (ksanti-paramita), tinh tấn siêu việt (virya¬paramita), thiền định siêu việt (dhyana-paramita) và trí tuệ siêu việt (prajna-paramita). Cũng xem pháp toàn thiện siêu việt, ba la mật, paramita.

    Sáu Bảo Trang – rgyan drug, sáu luận sư vĩ đại của Phật Giáo: Nagarjuna (Long Thọ), Aryadeva (Thánh Thiên), Asanga (Vô Trước), Vasubandhu (Thế Thân), Dignaga (Trần Na) và Dharmakirti (Pháp Xứng).

    Savaripa – sha ba ri pa hoặc ri khrod dbang phyug, một trong tám mươi tư đại thành tựu giả của Ấn Độ. Ngài là thợ săn ở một bộ tộc vùng đồi núi xứ Bengal, và đã cùng hai người vợ trở thành các đệ tử của Nagarjuna (Long Thọ).

    Shapkyu – zhabs kyu, nghĩa đen: chân móc. Một dấu hiệu có dáng của một cái móc được đặt dưới một phụ âm để tượng trưng cho âm u.

    Sharawa – shara ba (yon tan grags) (1070-1141), danh hiệu của một geshe Kadampa, đệ tử của Geshe Potowa.

    Om Mani Padme Hum !

  9. #479
    Ban Điều Hành Avatar của hoangtri
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.234
    Thanks
    740
    Thanked 630 Times in 296 Posts
    Lời vàng của thầy tôi
    THUẬT NGỮ
    __________________________________________________ ______________________________________


    Shubu Palgyi Senge – shud bu dpal gyi seng ge, một trong hai mươi lăm đại đệ tử của Padmasambhava.

    Siddhi (thành tựu) – dngos grub, xem thành tựu.

    Six Paramitas (Lục độ ba la mật) – xem Sáu Pháp Thành Tựu Siêu Việt.

    Smrtijnana – (thế kỷ 10-11), Đạo sư và pandita (học giả) Ấn Độ nổi tiếng, người góp phần vào việc phiên dịch sang tiếng Tây Tạng và hiệu đính một số Mật điển và luận giảng. Ở Tây Tạng, cái chết của Ngài đánh dấu sự chấm dứt của giai đoạn Cựu Dịch (Cựu Phái Dịch Thuật).

    So, Zur và Nub – so zur gnubs, ba Đạo Sư vĩ đại, là những bậc trì giữ dòng truyền thừa Nyingma Kahma lúc ban đầu (sự truyền dạy đầy đủ từ Đạo Sư sang đệ tử của giáo lý Nyingma, tương phản với Terma (kho tàng tâm linh) được ẩn dấu, về sau mới được khai quật, đôi khi sau một thời gian rất dài). Tên họ của các Ngài là So Yeshe Wangchuk, Zur Shakya Jungne và Nub Chen Sangye Yeshe.

    Songtsen Gampo – srong btsan sgam po (617-698), Vua thứ 33 của Tây Tạng và một trong ba Pháp Vương vĩ đại. Chính trong thời của Ngài mà những ngôi chùa Phật Giáo đầu tiên được xây dựng.

    Sri Simha (Cát Tường Sư Tử) – dpal gyi seng ge (thế kỷ thứ 4), vị Thầy thứ ba trong loài người thuộc dòng truyền thưà Đại Viên Mãn, đệ tử của Manjusrimitra (Diệu Đức Hữu).

    Srona (Sronajat) – gro byin skyes, một người chơi đàn vina sau trở thành đệ tử của Đức Phật và đạt được oai thần có thể viếng thăm các cõi khác, đặc biệt là các cõi ngạ quỷ.

    Stupa (bảo tháp) – mchod rten, nghĩa đen: hỗ trợ cho việc cúng dường, tượng trưng cho tâm Phật. Đài kỷ niệm tiêu biểu nhất, thường có một đáy vuông rộng lớn, phần giữa tròn, và một phần trên lớn, hình nón, trên đỉnh là một mặt trời và mặt trăng. Bảo tháp thường chứa xá lợi của những bậc chứng ngộ. Kích thước của bảo tháp biến đổi từ những mô hình đất sét nhỏ xíu tới những bảo tháp rộng mênh mông tại Borobodur ở Indonesia và Bodha (Bồ Đề Đạo Tràng) ở Nepal.

    Sugata (Thiện Thệ) – bde bar gshegs pa, nghĩa đen: đạt được hạnh phúc: một vị Phật, Đấng Thiện Thệ. “Đấng sử dụng con đường hạnh phúc của Bồ Tát Thừa, đạt được kết quả hạnh phúc là Phật Quả viên mãn.” DICT.

    Sunaksatra (Thiện Tú) – legs pa’i skar ma, anh em họ của Đức Phật, là người mặc dù trải qua hai mươi lăm năm làm thị giả của Đức Phật và thấu hiểu tất cả giáo lý của Ngài, nhưng vẫn không thể nhận thấy ra được bất kỳ phẩm tính thiện lành nào nơi Ngài. Ông chết không lâu sau khi rời Đức Phật và bị tái sinh làm một Ngạ quỷ.

    Suvarnadvipa (Pháp Vương) – gser gling pa, một Đạo sư Phật Giáo, Pháp Xứng (Dharmakirti), sống ở Sumatra vào thế kỷ thứ 10. Atisa coi Ngài như bậc Thầy quan trọng nhất trong các vị Thầy. Từ Ngài, Atisa thọ nhận giáo lý Bồ Đề Tâm.

    Tà kiến – log lta, Phạn: mithyadristi, AT: niềm tin sai lạc, đặc biệt là một quan điểm sai lầm sẽ dẫn ta tới những tiến trình hành động gây thêm nhiều đau khổ hơn nữa.

    Tam Bảo – dkon mchog gsum, Phạn: triratna, Phật, Pháp và Tăng đoàn.

    Tam độc – xem ba độc.

    Tam giới (Ba cõi) – 1) khams gsum, Dục Giới, Sắc Giới và Vô Sắc Giới. Thế giới thứ nhất bao gồm chúng sinh ở các cõi Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sinh, Người và A Tu La, cùng một vài cõi Trời. Hai thế giới kế tiếp là các cõi Trời với một kinh nghiệm tinh tế là kết quả của một vài loại thiền định mãnh liệt (xem thiền định thế tục), 2) Đôi khi được dùng để dịch sa gsum, Phạn: tribhvana, nghĩa đen là ba tầng lớp: phía trên mặt đất (sa bla), mặt đất (sa steng) và bên dưới mặt đất (sa ‘og); được gọi là cõi Trời, cõi người và cõi Rồng.

    Tam học (Tam-yếu Pháp) – bsab pa gsum, Phạn: trisiksa, giới (tsul khrims, sila), định (ting nges’ dzi, citta) và tuệ (shes rab, prajna).

    Om Mani Padme Hum !

  10. #480
    Ban Điều Hành Avatar của hoangtri
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.234
    Thanks
    740
    Thanked 630 Times in 296 Posts
    Lời vàng của thầy tôi
    THUẬT NGỮ
    __________________________________________________ ______________________________________


    Tam Tạng (Tripitaka) – sde snod gsum, Ba tạng Giáo lý của Đức Phật, Sutra (Kinh) , Vinaya (Luật) , Abhidharma (Luận). Đôi khi giáo lý Kim Cương Thừa được coi là pitaka (tạng) thứ tư . Tripitaka có nghĩa là “ba cái giỏ” - được gọi như thế là vì trước tiên Kinh điển được chép lại trên những trang sách bằng lá cây cọ, được tập hợp lại và chứa trong những cái giỏ (rổ).

    Tam thiên đại thiên thế giới – stong gsum, Phạn: trisahasra, vũ trụ gồm có một tỉ thế giới giống như thế giới của chúng ta và tương ứng với phạm vi hoạt động của một vị Phật.

    Tám dấu hiệu cát tường
    (Eight auspicious signs) – bkra shis rtags brgyad, tám biểu tượng (tương ứng với các bộ phận khác nhau trên thân Phật): nút vĩnh cửu, hoa sen, màn trướng, ốc xà cừ, bánh xe, cờ, bảo bình, và cá vàng.

    Tám hành vi sai lầm – log pa rgyad, 1) chỉ trích điều tốt, 2) khen ngợi điều xấu, 3) làm ngưng trệ việc tích lũy công đức của một người đức hạnh, 4) làm náo động tâm thức của người có lòng quy kính, 5) từ bỏ vị Thầy tâm linh, 6) từ bỏ Bổn Tôn, 7) từ bỏ các huynh đệ và tỉ muội Kim cương, 8) phỉ báng một Mạn đà la.

    Tám mối quan tâm thế tục – ‘jig rten chos brgyad, Phạn: astalokadharmah, những mối bận tâm bình thường của những người chưa chứng ngộ và không có được một nhãn kiến tâm linh trong sáng. Đó là: được và mất, vui và buồn (khổ), khen và chê, vinh và nhục.

    Tám Mộ Địa Vĩ Đại – dur khrod chen po brgyad, những nơi kinh hoàng (mộ địa) mà các Không Hành nam (daka) và Không Hành nữ (dakini) tụ hội. Trong ý nghĩa sâu xa thì những mộ điạ này tương ứng với tám thức (rnam shes brgyad).

    Tám mươi Đại Thành Tựu Giả (Mahasiddha)– 1. tám mươi (hay tám mươi tư) đại thành tựu giả của Ấn Độ thời cổ mà cuộc đời các Ngài đã được Abhayadatta thuật lại (xem Sư Tử của Đức Phật, Emeryville, Nhà Xuất bản Dharma, 1979). 2) tám mươi thành tựu giả xứ Yerpa ở Tây Tạng, các đệ tử đạt được những thành tựu siêu việt của Đức Liên Hoa Sanh (Padmasambhava).

    Tám Pháp Vương Tử Vĩ Đại (Tám Đại Bồ Tát) – nye ba’i sras chen brgyad, các vị Đại Bồ Tát chính trong giáo đoàn của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni: Manjusri (Văn Thù), Avalokitesvara (Quán Tự Tại), Vajrapani (Kim Cương Thủ), Maitreya (Di Lặc), Ksitigarbha (Địa Tạng), Sarvanivaranaviskambhin, và Samantabhadra (Phổ Hiền). Mỗi vị đóng một vai trò đặc biệt để cứu giúp chúng sinh. Các Ngài tượng trưng cho trạng thái thuần tịnh của tám thức.

    Tám Thiên Nữ cúng dường
    – mchod pa’i lha mo brgyad: Thiên Nữ Nhan Sắc (sgeg mo ma, Phạn: Lasya), Thiên Nữ Tràng Hoa (phreng ba ma, Mala), Thiên Nữ Hát Ca (glu ma, Gita), Thiên Nữ Vũ Điệu (gar ma, Nrtya), Thiên Nữ Bông Hoa (me tog ma, Puspa), Thiên Nữ Hương Đăng (bdug spos ma, Dhupa), Thiên Nữ Nhiệt Đăng (snang gsal ma, Aloka) và Thiên Nữ Hương Thơm (dri chab ma, Gandha). Trong mạn đà la của các Bổn Tôn Báo Thân an bình, tám Thiên Nữ cũng là những vị phối ngẫu của tám vị Đại Bồ Tát (xem Tám Pháp Vương Tử Vĩ Đại), và tượng trưng, tương ứng cho trạng thái thuần tịnh của bốn đối tượng của các giác quan (sắc tướng, âm thanh, mùi hương, và mùi vị), cũng như của bốn khía cạnh của tư tưởng (quá khứ, hiện tại, tương lai và thời gian không xác định).

    Om Mani Padme Hum !

Thông tin chủ đề

Users Browsing this Thread

Hiện có 1 người đọc bài này. (0 thành viên và 1 khách)

Quyền viết bài

  • Bạn không thể gửi chủ đề mới
  • Bạn không thể gửi trả lời
  • Bạn không thể gửi file đính kèm
  • Bạn không thể sửa bài viết của mình
  •