"Dĩ vô sở đắc cố, bồ đề tát đỏa y bát nhã ba la mật đa cố, tâm vô quái ngại, (lại không có chứng đắc. Bậc bồ đề tát đỏa, y theo bát nhã ba la mật đa nên tâm không quái ngại)".

"Vô tu vô chứng vô sở đắc
Hữu tướng hữu vi hữu tận thời
Bồ đề tát đỏa ngộ kỳ lý
Y cứ bát nhã bỉ ngạn tề
Tâm vô quái ngại nan báo chướng
Duy cụ chân không nê âm tư
Kỳ ngũ lai hiền cầu chư kỷ
Ðầu thượng an đầu tối ngu si
Dịch :
Không tu không chứng không chỗ đắc
Có tướng có làm có thời hạn
Bồ đề tát đỏa ngộ lý này
Y cứ bát nhã đến bờ giác
Tâm không quái ngại, rời báo chướng
Chỉ có chân không tuyệt ngôn ngữ
Nhắc kẻ hiền sĩ cầu tri kỷ
Ðầu đặt trên đầu thật ngu si".

Ðoạn văn trên giảng về không trí huệ cũng không chứng đắc. Không trí tức là không có trí huệ của tạng giáo Bồ Tát hành lục độ. Không đắc tức là không chứng đắc niết bàn hữu dư của người nhị thừa.
Lại không có chỗ chứng đắc. Không chỗ chứng đắc là tông chỉ của bộ kinh này. Tông chỉ của tâm kinh bát nhã ba la mật đa là gì ? Tức là phá trừ chấp trước, khiến tâm chư vị không chấp trước vào chỗ chứng đắc. Tuy chứng mà không chứng, không chứng mà chứng. Sao gọi chứng mà không chứng ? Chư vị chứng đắc quả vị thánh mà không chấp trước mình chứng quả, vì thế mới có thể chứng đắc cứu cánh niết bàn chân chánh. Thế nên không chỗ chứng đắc là tông chỉ của kinh này.
Bồ đề tát đỏa y chiếu theo bát nhã ba la mật đa nên tâm không quái ngại. Bồ đề tát đỏa tức là Bồ Tát. Ngài y chiếu theo bát nhã ba la mật đa, tức là pháp trí huệ thâm sâu mà tu hành. Tu hành đắc được gì ? Ðắc được tâm không quái ngại. Tâm chúng ta không thể đạt đến chỗ tự tại, vì còn có chỗ quái ngại. Không còn quái ngại thì đạt được tự tại. Không quái ngại này trừ được báo chướng, cũng là dùng không chỗ chứng đắc mà phá trừ ba chướng. Vì vậy phá trừ ba chướng là lực dụng của bài kinh này. Ba chướng tức là báo chướng, nghiệp chướng, phiền não chướng. Nếu tâm còn có chỗ quái ngại thì không thể phá trừ báo chướng. Không quái ngại nghĩa là gì ? Tức là đạt đến nhân không, pháp không. Chứng đến cảnh giới người và pháp đều là không.
"Vô tu vô chứng vô sở đắc, (không tu không chứng không chỗ chứng đắc)".
Không tu là gì ? Nghĩa là đã tu hành xong rồi. Không có chỗ chứng đắc, tại sao ? Vì đã chứng đắc, đã từng hành rồi, sau này không còn phải thọ nhận nữa. Những việc nên làm đã làm xong. Việc lớn đã hoàn thành nên gọi là không chứng đắc. Không tu không chứng đắc có phải là có chỗ chứng đắc không ? Cũng là không chỗ chứng đắc. Nếu còn một chỗ chứng đắc nào thì vẫn còn chấp trước.
"Hữu tướng hữu vi hữu tận thời, (có tướng có làm có thời hạn)".
Nếu chư vị chấp trên hình tướng, hoặc chỉ nhìn trên pháp hữu vi, đều là thời gian có cùng tận, mãi không thể vô tận. Chư vị phải nghĩ về cái vô tận, nên không tu, không chứng không chỗ đắc. Chư vị làm việc gì cũng không có chỗ chứng đắc, khi ấy chính là không có chỗ quái ngại.
"Bồ Ðề Tát Ðỏa ngộ kỳ lý, (Bồ Ðề Tát Ðỏa ngộ lý này)".
Sao gọi là Bồ Ðề Tát Ðỏa ? Người Tàu gọi là Bồ Tát, nói cho đủ là Bồ Ðề Tát Ðỏa. Ðó là phiên dịch từ chữ Phạn ra chữ Tàu. Bồ Ðề tức là giác. Tát Ðỏa tức là loài hữu tình. Sao gọi là giác hữu tình ? Tức là giác ngộ cho các loài hữu tình.
Sao gọi là hữu tình ? Những loài có khí huyết gọi là hũu tình. Loài hữu tình này không chỉ đơn giản nói về loài người thôi, mà bao quát chung cho tất cả loài vật có sanh mạng. Giác ngộ hữu tình tức là giác ngộ tất cả loài hữu tình, khiến cho mọi loài hữu tình đều được giác ngộ, tức chính họ tự giác ngộ. Ví như mình đang tụng chú Lăng Nghiêm, cũng muốn người khác biết tụng chú Lăng Nghiêm như mình. Không phải chỉ tự mình biết tụng là đủ rồi, vì đó biểu thị mình và người không đồng, không nên làm như thế. Mình có đạt được lợi ích gì thì cũng đều vui vẻ khiến cho người khác đạt được lợi ích đồng như mình. "Tôi nghe được vài điểm hay trong kinh. Tôi hiểu đạo lý làm người, lý lẽ học Phật pháp. Tôi cũng khuyên bạn bè, bà con quyến thuộc đến nghe kinh thuyết pháp. Mọi người đồng đạt lợi ích như nhau. "