Khi bài hát chấm dứt, Peta nhún vai:
“Em thấy rằng anh cố ý đồng hóa sự dễ dàng và tiện nghi với cuộc sống thế gian. Tất cả những lời thuyết pháp của anh chỉ là những lời biện hộ bào chữa bởi vì anh biết rằng không bao giờ anh có thể trở thanh giàu có thừa thải như Lạt-ma Bari-Lotsa-wa. Nếu em phải đến sơn cốc với anh, em sẽ hoàn toàn khốn khổ vì không có gì để ăn, không có gì để mặc – và em cũng sẽ không biết cả núi Everest ở đâu nữa là khác. Bây giờ anh ơi, xin anh hãy ở yên một chỗ, đừng có chạy lung tung nơi này nơi nọ giống như con thú chạy rong, tìm chỗ ẩn trú trong các hang động, và đeo bám vào các gành núi như một con dê, để em có thể tìm anh dễ một chút. Những người ở đây dường như đã hơi kính trọng anh, vì thế tốt hơn anh nên ở luôn lại đây. Dù sao anh cũng hãy ở lại đây ít ngày. Anh hãy tự may quần áo với tấm vải này, và em sẽ trở lại ngay.” Và Peta lại ra đi tìm những gì có thể tìm được bằng sự xin xỏ.
Để làm bổn phận, tôi cắt tấm mền ra, và đầu tiên tôi may một cái mũ để trùm đầu, một cái bao nhỏ để trùm mấy ngón tay, một cặp cho hai bàn chân, và một cái ngăn cho bộ phận mà sự hiện diện của nó làm em gái tôi rất ngượng! Vài hôm sau Peta trở lại, muốn xem xét kết quả việc làm của tôi – và khi tôi đưa ra cho nó xem, nó phẫn nộ vô cùng. Tôi đeo từng chiếc bao nhỏ vào…
Peta hét lớn:
“Anh ơi, anh thật chưa phải là người và cũng chẳng biết xấu hổ. Này, anh phá hỏng tấm mền mà em phải khổ nhọc hết sức mới kiếm được cho anh. Dường như đôi khi anh không có thì giờ để thiền định, đôi khi anh lại phí quá nhiều thì giờ để làm một việc như thế này.”
Tôi nói một cách bình tĩnh:
“Anh quả quyết với em rằng anh là một người xứng đáng với tiếng người nhất vì anh đang hướng đời anh đến một điều có thể nói là tốt đẹp nhất. Biết những gì thật sự đáng xấu hổ và những gì thực sự không đáng xấu hổ, vì thế anh đã sống cuộc sống tu hành này. Dường như em cảm thấy xấu hổ vì hình dạng tự nhiên của anh và vì khó có thể cắt đi cái cơ quan làm em quá bối rối khi em cảm thấy nó như vậy, nên anh đã may một cái bao để bao nó lại; và những cái kia cũng tương tự như vậy nên anh nghĩ rằng em cũng muốn anh che chúng lại cho tử tế. Anh không phí tấm mền của em đâu, nó đã được dùng theo ý em muốn vì bây giờ anh đang dùng nó để che phủ cái cơ quan khiến em hổ thẹn này. Vì em quá kiểu cách và còn nghi lễ hơn anh rõ ràng. Rồi hãy để anh nói cho em nghe, xem anh có hổ thẹ hơn em hay không. Tốt hơn em hãy cắt bỏ nhanh những cơ quan xấu hổ của em đi!”
Đến đây khuôn mặt Peta trở nên hờn giận, vì thế tôi tiếp tục:
“Những người thế gian không biết chỗ nào xấu hổ và chỗ nào không xấu hổ. Cái gì đáng xấu hổ là những hành vi xấu xa, thì họ là những kẻ ít biết xấu hổ nhất cho chính họ trong những việc họ làm; vì thế họ thực sự không thật biết về những gì đáng xấu hổ và cái gì không đáng xấu hổ.”
Rồi tôi hát cho Peta nghe một bài hát nữa nhấn mạnh điểm này và thêm rằng những người tu hành khổ hạnh đã từ bỏ những khoái lạc thế gian và bắt đầu cầu Chân lý không cần để ý đến những tiêu chuẩn ước lệ tầm thường về lễ nghi hay không lễ nghi. Peta, em gái của tôi, đang tự làm phiền nó một cách vô ích với những ước lệ này.
Peta vẫn con giận hờn, tuy nhiên khi tôi chấm dứt bài hát, nó chỉ trao cho tôi những thực phẩm mà nó đã dành dụm khi nó đi xin, và nói:
“Anh quả thật không thể sửa đổi được và không bao giờ nghe lời em cả, nhưng dù sao em cũng không thể bỏ mặc anh được. Anh hãy cầm lấy những cái này và để xem em có thể tìm được gì nữa hay không.”
Rồi Peta quay đi; nhưng tôi muốn thay đổi Peta bằng cách suy nghĩ của tôi. Tôi lay hoay thuyết phục nó ở lại cho đến khi hết thức ăn, vì dù nó không tập tự hiến mình, ít nhất nó cũng không thể làm bất cứ điều gì nó không nên làm khi nó ở với tôi. Trong khi Peta ở với tôi, tôi đã giảng giáo lý về Nghiệp cho nó không ngừng, cối cùng dường như tôi đã gây được một ấn tượng nhỏ trong đầu óc Peta. Vì thế Peta đã bắt đầu thấy hơi thích tôn giáo một chút.
Và một hôm có bóng ai xa xa đang hướng về phía chúng tôi. Nhưng đó chỉ là người thím già độc ác của chúng tôi! Người ta cho biết rằng chồng bà đã chết, bà đã có sự thay đổi hoàn toàn trong lòng liên quan đến cách cư xử của bà đối với chúng tôi, và lòng bà tràn ngập hối hận vì những sai lầm mà hai người – bà và chồng bà – đã đối xử với chung tôi, và bây giờ bà đến với một con bò yak trên lưng chở nhiều phẩm vật và tìm tôi khắp nơi. Cuối cùng bà đã đến ngôi làng bên dưới sơn cốc của tôi. Bà đã để lại con bò yak và phẩm vật nơi đó, và bà trèo lên sườn núi mang theo những gì bà có thể mang được. Peta nhìn thấy bà trước, kêu tôi:
“Sao bà thím độc ác của chung ta, người đã gây cho chúng ta bao nhiêu đau khổ lại đến đây làm gì? Chúng ta đừng dây dưa với bà ta nữa!” Vừa nói Peta vừa cất chiếc cầu nhỏ bắt ngang qua cái hố chia cách sơn cốc với con đường nhỏ bên kia.
Bà thím của chúng tôi đến bên hố và dừng lại ở đó, nói với Peta:
“Cháu ơi, đừng cất chiếc cầu, thím già của cháu muốn qua đấy.”
“Thế tại sao tôi lại không cất chiếc cầu?” Peta đáp một cách hỗn láo.
Bà ta nói:
“Thím không thể trách cháu được, nhưng thím đã thực sự hối hận một cách chua cay nhất vì những việc thím đã gây ra cho hai cháu, xin cháu đặt chiếc cầu lại; hay nếu cháu không đặt, ít nhất cháu cũng nói với anh cháu rằng thím đang ở đây.”
Ngay lúc đó tôi đến và ngồi trên một ụ đất bên cạnh chúng tôi. Bà tiến đến cúi đầu chào tôi và van xin tôi cho phép bà qua để nói chuyện. Vì là người tu hành, tôi cảm thấy rằng tôi không thể từ chối lời yêu cầu của bà, có thể là chân thật, nhưng ít nhất nó cũng cung cấp một ít sự thật ở nhà. Vì thế tôi nói:
“Tôi đã từ bỏ những người thân thuộc của tôi với tất cả sự vật thế gian và nhất là tôi từ khước các người, chú và thím. Chưa thỏa mãn với những ngược đã của thím đối với chúng tôi là những đứa trẻ mồ côi, khi tôi đã trở thành một người tu khổ hạnh mà cơ duyên đã đến cửa nhà thím, thím lại thả chó cắn tôi, thím còn đánh đập tôi tàn nhẫn.”
Rồi tôi bắt đầu hát cho bà nghe một bài hát về những hành động lỗi lầm của bà và kết thúc bằng lời từ chối cách cư xử của bà đối với Peta là người ít nhất về mặt vật chất đã cố gắng giúp đỡ tôi rất nhiều, mặc dù nó thiếu sự mến thích Đạo lý. Và tôi buộc bà phải từ giã khi đã có cơ hội.
Bài hát này làm cho thím tôi cảm động và bật khóc. Bà chấp nhận những lời tố cáo của tôi, nhưng tôi nhắc lại những lời cam kết thành thật sám hối tội lỗi của bà và bà xin tôi tha thứ. Bà nói:
“Thím đến đây với ước mong thật sự muốn gặp cháu. Nếu cháu không muốn thím qua với cháu, thím sẽ tự tử ngay đây.”
Tôi thấy rằng cuối cùng bà đã thành thật và vì tôi ở vị thế phải tha thứ khi bà đã hối lỗi trong những điều kiện như thế. Tôi bắt đầu đặt cầu xuống, mặc dù Peta đụng khuỷu tay tôi, thì thầm bảo rằng chúng ta đừng có tin mụ già độc ác chút nào hết. Tuy nhiên, sự hoài nghi của Peta lúc này không vững. Thím tôi thực sự đã thay đổi, và bà qua đến cốc của tôi với những tặng phẩm. Bà ngồi xuống nghe trong khi tôi giảng về Nghiệp – như thế từ từ bà được cải hóa và sau cùng bà đã tiến đến mức cuối cùng trong đời sống tu hành.