DIỄN ĐÀN PHẬT PHÁP THỰC HÀNH - Powered by vBulletin




Cùng nhau tu học Phật pháp - Hành trình Chân lý !            Hướng chúng sinh đi, hướng chúng sinh đi, để làm Phật sự không đối đãi.


Tánh Chúng sinh cùng Phật Quốc chỉ một,
Tướng Bồ Đề hóa Liên hoa muôn vạn.

Trang 15/16 ĐầuĐầu ... 513141516 CuốiCuối
Hiện kết quả từ 141 tới 150 của 160
  1. #141
    Avatar của hungcom
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    198
    Thanks
    136
    Thanked 208 Times in 79 Posts


    57. THIỀN SƯ BẢN TỊCH (Trước tên là Pháp Mật) (? – 1140)

    Chùa Chúc thánh, làng Nghĩa trú, Bình lạc (1). Người Tây kết, họ Nguyễn, hậu duệ của Nội cung phụng đô úy Nguyễn Kha triều Lê. Sớm có nhiều tài, gặp một vị Tăng lạ, lấy làm kỳ nói rằng: "Ðứa bé này cốt tướng phi phàm nếu xuất gia, chắc thành hạt giống của Phật pháp".

    Ðến khi lớn, Sư trước đến thọ giáo với Thuần Chân chùa Hoa quang, rõ được yếu chỉ, rồi lại thọ giới Cụ túc. Chân thấy Sư định lực tròn đầy, giới thể trong sạch, học một biết mười, xoa đầu nói rằng: "Chánh pháp phía Nam, đang đợi ông đến xiển dương". Từ đó, Sư không còn vướng mắc việc hữu vô, gồm rõ đốn tiệm (2). Ðến đâu cũng gieo khắp mưa pháp, xa rải gió huyền, Tăng, Ni dốc theo, người tục ngưỡng mộ.

    Ngày 14 tháng 6, mùa hè năm Kỷ mùi Thiệu Minh thứ 3 (1139), Sư hợp môn đồ, dạy rằng: "Vô sự ! Vô sự !". Nói xong thì mất.


    __________________________________________________ ___



    THẾ HỆ THỨ MƯỜI BỐN
    (BỐN NGƯỜI, BA NGƯỜI KHUYẾT LỤC)


    58.TĂNG THỐNG KHÁNH HỶ (1067-1142)

    Làng Từ liêm, Vĩnh khương(1). Người Cổ giao, Long biên, họ Nguyễn, dòng dõi Tịnh hạnh. Nhỏ không ăn đồ tanh hôi, lớn theo thọ giáo với Bản Tịch chùa Chúc thánh.

    Một hôm, Sư theo Tịch đến cúng một nhà thí chủ. Trên đường đi, Sư hỏi rằng: "Cái gì là ý chính Thiền tôn của các Tổ?". Gặp lúc nghe nhà dân đang đánh trống lên đồng, Tịch trả lời: "Ấy chẳng phải là thứ lời đồng bóng, đang triệu thỉnh quỷ thần đó sao?".

    Sư thưa: "Hoà thượng chớ giỡn mãi".

    Tịch nói: "Ta chưa từng giỡn bao giờ".

    Sư không hiểu, bèn từ giã Tịch ra đi, đến Biện Tài ở chùa Vạn tuế. Biện Tài hỏi: "Ngươi từ đâu đến đây?"

    Sư thưa: "Từ Tịch công đến".

    Tài hỏi: "Thầy đó cũng là một bậc thiện trí thức một phương, thế ông ta đã từng nói câu gì?".

    Sư thưa: "Con thờ thầy ấy đã lâu năm, nhưng chỉ hỏi một câu mà thầy không trả lời, nên con bỏ đi".

    Tài hỏi: "Ông hỏi cái gì?".

    Sư kể lại chuyện trước.

    Tài bảo: "Ôi! Tịch công đã vì ông nói rõ đạo lý, ông chớ phỉ báng Bổn sư của ông".

    Sư trầm ngâm suy nghĩ.

    Tài nói: "Không thấy nói:

    Hiểu được khắp nơi đúng,

    Không ngộ mãi trái sai?"(2)

    Sư bỗng nhiên đốn ngộ, bèn trở về.

    Tịch thấy, hỏi: "Ngươi từ đâu đến mau thế?"

    Sư lạy nói: :Con có tội hủy báng Hoà thượng, nên đến xin sám hối vậy".

    Tịch dạy: "Tướng và tánh của tội vốn không, ngươi làm sao sám hối?".

    Sư đáp: "Xin sám hối như vậy".

    Tịch bèn thôi.

    Sư thường cùng hai Thiền sư Tịnh Nhãn và Tịnh Như trong khi đứng hầu, Tịch bảo: "Các ông theo học với ta kể đã lâu ngày, vậy mỗi người hãy trình bày điều thấy biết của mình để ta xem mỗi ông tiến đạo như thế nào?".

    Nhãn và Như sắp mở miệng thì Sư quát:

    "Một màn che mắt

    Hoa đốm rối rơi"(3).

    Tịch nói: "Xà lê Khánh Hỷ can cớ gì cái thuyền ấy, sao lại đập vỡ cái hộc đo?"(4)

    Sư thưa: "Cần gì thuyền"?

    Tịch nói: "Thằng ranh mãnh đó, chớ có ồn ào"

    "Ngươi chỉ giải thoát đến việc bên này thôi, còn việc bên kia cũng chưa mộng thấy được".

    Sư đáp: "Tuy vậy, chỉ là việc khác thôi".

    Tịch nói: "Buông thả sào trăm thước

    Lao đầu một mình đi".(5)

    Ngươi hiểu sao?

    Sư giơ hai tay lên đáp: "Không nguy hiểm, không nguy hiểm !"

    Tịch nói: "Buông đi tức khắc !"

    Từ đó, danh Sư vang khắp tòng lâm. Trong khoảng năm Thiên Chương Bảo Tự (1133-1137), Sư được triệu về kinh, vua khen ngợi việc Sư trình bày đối đáp xứng chỉ, phái làm Tăng lục, rồi thăng làm Tăng thống.

    Một hôm, đệ tử Pháp Dung hỏi: "Rõ được sắc không, thì sắc là phàm hay thánh?"

    Sư trả lời bằng bài kệ:

    "Nhọc đời thôi hỏi sắc cùng không

    Học đạo chẳng qua phỏng tổ tông

    Thiên ngoại tìm tâm khôn định thể

    Nhân gian trồng quế há thành tùng?

    Càn khôn gom lại đầu sợi tóc

    Nhật nguyệt nằm trong hạt cải mòng(6).

    Trước mặt nắm tay dùng việc lớn

    Ai hay phàm thánh với Tây Đông".(*)

    Nói xong, ngày 25 tháng 01 năm Nhâm Tuất Ðại Ðịnh thứ 3 (1142), Sư thị bệnh mà mất, thọ 76 tuổi. Có Ngộ đạo ca thi tập lưu hành ở đời .


    _____________

    Chú thích :

    THIỀN SƯ BẢN TỊCH

    (1)
    Tức phần đất thuộc huyện Văn giang và Mỹ hảo,tỉnh Hưng yên ngày nay, bởi vì hai huyện đấy hiện đang có con kinh mang tên Nghĩa trụ chảy qua. Tên Bình lạc xuất hiện từ năm 621, khi Lý Uyên đặt ra Long châu gồm ba huyện Long biên, Vũ ninh và Bình lạc. Xem Tân đường thư 43 thượng tờ 9b13. Ðến thời Lý, nó là tên một đạo, như Ðại Việt sử lược 3 tờ 25b7-8 ghi lại.

    Làng Nghĩa trú, chúng tôi cho là làng Nghĩa trang, tổng Sài trang, huyện Ðường hào, trấn Hải dương của Bắc thành địa dư chí lục 2, tức huyện Mỹ hào, tỉnh Hưng yên ngày nay. Những tài liệu Lý, Trần đều có nói ngôi làng này. Ðại Việt sử lược 3 tờ 29a4 gọi nó là một cái ấp, viết: "Năm Kiến Gia thứ 5 (1215) người Nghĩa trú là Chu Ðình đem ấp mình phụ theo Nguyễn Nộn". Tam tổ thực tục tờ 26a4 nói Nghĩa trú còn có một ngôi chùa tên Phổ quang.

    (2)
    Hữu vôđốn tiệm là những phạm trù lớn của tư tưởng Phật giáo Trung quốc cũng như Viễn đông. Hữu vô hay có không, nguyên là cặp phạm trù lớn của học thuyết Lão Trang, đấy là thuyết "Hữu vô tương sinh". Xem Ðạo đức kinh tờ 1-2a: "Vô danh thiên địa chi thỉ, hữu danh vạn vật chi mẫu… Cố hữu vô tương sinh, nan dị tương thành, trường đoản tương giảo, cao hạ tương khuynh…" Cặp phạm trù hữu vô đó, tới khi Phật giáo truyền nhập Trung quốc, lại trở thành một trong những cặp phạm trù lớn của tư tưởng Phật giáo, bởi vì, như Ðạo An (312-385) đã viết: "Người xứ đây(tứ c Trung Quốc) giáo thuyết Lão Trang đang thịnh hành… nên nhân theo phong trào mà phát triển".

    Còn đốn tiệm, hay mau chậm, là một cặp phạm trù lớn khác do kinh Lăng già giới thiệu vào Trung Quốc vào thế kỷ thứ 5, liên quan đến vấn đề người tu đạo có thể tức khắc giác ngộ sự thực toàn diện toàn phần hay chầm chậm giác ngộ từng bước từng phần.

    Xem Phật thuyết nhập lăng già kinh tờ 596a23-29. Sự phân biệt đó sau này trở thành tiêu chuẩn duy nhất để phân biệt để xác định thế giá của hai trường phái thiền lớn của Trung Quốc sau Hoằng Nhẫn, đấy là trường phái thiền của Huệ Năng, thường gọi là Nam đốn, và trường phái thiền của Thần Tú, thường gọi là Bắc tiệm.

    (3) Theo Ðại Việt sử lược 3 tờ 3a2 mới có năm Kỷ mùi Thiệu Minh thứ 3. Theo Toàn thư B4 tờ 1a7 thì năm Kỷ mùi nhằm năm Thiệu Minh thứ 2. Cương mục chính biên 4 tờ 34b4 cũng chép như Toàn thư.

    --------------------

    TĂNG THỐNG KHÁNH HỶ

    (1)
    Tức làng Từ liêm, huyện Hoài đức, tỉnh Hà đông ngày nay. Xem chú thích (2) truyện Vân Phong.

    (2)
    Ðại Châu Huệ Hải: "Sư vân: Ðạt tức biến cảnh thị, bất ngộ vĩnh quai sơ". Xem Truyền đăng lục 6 tờ 247a24.

    (3)
    Phù Dung Linh Huấn: "Sư viết: Như hà bảo nhiệm. Tôn viết: Nhất ế tại nhãn, không hoa loạn trụy". Xem Truyền đăng lục 10, tờ 280c26.

    (4)
    Bàng Uẩn hỏi Mã Tổ Ðạo Nhất: "Nước không có gân cốt mà có thể thắng thuyền muôn hộc, lẽ ấy thế nào?". Ðạo Nhất đáp: Trong đó không có nước cũng không có thuyền thì gân cốt là cái gì?".

    Xem Truyền đăng lục 6 tờ 246a26-28.

    (5)
    Bài kệ của Thiền sư Cảnh Sầm:

    "Bách trượng can đầu bất động nhân

    Tuy nhiên đắc nhập vị vi chân

    Bách trượng can đầu tu tiến bộ

    Thập phương thế giới hiện toàn thân."


    (Trăm trượng đầu sào kẻ đứng im

    Dẫu cho vào được chửa là chân

    Trăm trượng đầu sào thêm bước nữa

    Mười phương thế giới hiện toàn thân.)


    Xem Truyền đăng lục 10 tờ 274b 6-8

    (6)
    Duy Ma Cật sở thuyết quyển trung tờ 546b25-c18:

    "Nhược Bồ tát trú thị giải thoát giả, dĩ Tu di chi cao quảng, nạp giới tử trung, vô sở tăng giảm…Hựu thập phương quốc độ sở hữu nhật nguyệt tinh tú, ư nhất mao khổng phổ sử hiện chi"(**). Xem Ðại phương quảng Phật hoa nghiêm kinh 80 tờ 440c21-22 "Nhất mao khổng, tất hữu tam thiên đại thiên thế giới".



    ---------------------

    Chú thích của hungcom :

    (*)


    勞生休問色兼空
    學道無過訪祖宗
    天外覓心難定體
    人間植桂起成叢
    乾坤盡是毛頭上
    日月包含芥子中
    大用現前拳在手
    誰知凡聖與西東


    Lao sinh hưu vấn sắc kiêm không
    Học đạo vô qua phỏng tổ tông
    Thiên ngoại mịch tâm nan định thể
    Nhân gian thực quế khởi thành tùng
    Càn khôn tận thị mao đầu thượng
    Nhật nguyệt bao hàm giới tử trung
    Đại dụng hiện tiền quyền tại thủ
    Thuỳ tri phàm thánh dữ Tây Đông.



    (**)

    "Nhược Bồ tát trú thị giải thoát giả, dĩ Tu di chi cao quảng, nạp giới tử trung, vô sở tăng giảm…Hựu thập phương quốc độ sở hữu nhật nguyệt tinh tú, ư nhất mao khổng phổ sử hiện chi"


    Câu này nghĩa là :

    "Nếu có Bồ tát chứng đắc pháp môn GIẢI THOÁT này, thì có thể đem cả núi Tu Di to lớn nhét vào trong một hạt cải bé xíu, mà núi Tu Di và hạt cải đều không bị tổn hoại...Lại có thể đem mặt trời mặt trăng và các vì sao của 10 phương Thế Giới Phật (quốc độ) bày ra nơi một lổ chân lông".
    Y pháp bất y nhân, Y nghĩa bất y ngữ, Y Trí bất y Thức,
    Y liễu nghĩa Kinh, bất y vị liễu nghĩa Kinh.

  2. #142
    Ban Điều Hành Avatar của hoatihon
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.150
    Thanks
    1.129
    Thanked 1.675 Times in 683 Posts


    Vấn Tổ Tông




    Bọt vỡ tan rồi!, Mộng dở dang ...

  3. #143
    Avatar của hungcom
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    198
    Thanks
    136
    Thanked 208 Times in 79 Posts


    THẾ HỆ THỨ MƯỜI LĂM

    (BA NGUỜI, MỘT NGƯỜI KHUYẾT LỤC)


    59. THIỀN SƯ GIỚI KHÔNG

    Chùa làng Tháp bát, quận Mãn đẩu(1). Người quận đấy, họ Nguyễn, tên Tuân, con nhà lương, nhỏ đã ưa Phật giáo. Ban đầu, Sư theo Quảng Phước chùa Nguyên hòa núi Chân ma(2). Xuất gia và thọ giới cụ túc, hầu hạ vài năm, Sư được Thiền chỉ. Sư dựng một cái am ở núi Lịch(3). Trải qua năm năm, chuyên thiền định, sau chống gậy xuống núi, tùy nơi giảng hóa. Ði tới Nam sách, Sư vào núi Thánh chúa(4) ở cấm túc sáu năm, tu hạnh đầu đà, đến nỗi sai được quỷ thần theo lệnh, thú dữ đến phục.

    Lý Thần Tông trưng mời, Sư nhiều lần từ chối, rồi mới đến. Năm Ðại Thuận thứ 8(5), có nạn dịch lớn , Sư được triệu đến kinh, sắc ở chùa Gia lâm dùng nước chú giải để trị. Người bệnh lành ngay. Ngày đến cả ngàn, vua rất khen thưởng cho hộ 10 người để làm cấp dưỡng.

    Tuổi già, Sư về làng cũ, trùng tu chùa hoang 95 ngôi.

    Một hôm không bệnh, Sư nói kệ dạy chúng rằng:

    "Ta có một việc kỳ đặc

    Chẳng xanh, vàng, đỏ, trắng, đen

    Thiên hạ tại gia xuất gia

    Yêu sống, ghét chết là giặc

    Không biết sống chết khác đường

    Sống chết chỉ là được mất

    Nếu bảo sống chết khác đường

    Dối lừa Thích Ca, Di Lặc

    Nếu biết sống chết, sống chết

    Mới hiểu chỗ ẩn lão tăng

    Các ngươi môn nhơn hậu học

    Chẳng nhận vòng vo phép tắc".
    (*)

    Nói kệ xong, Sư cười lớn một tiếng, chấp tay mà mất. Môn nhân đệ tử là châu mục Lê Kiếm (6)và phòng át sứ Hán Ðinh làm lễ trà tỳ, thu xá lợi, dựng tháp đúc tượng để hương khói.


    ______________

    Chú thích :

    (1)
    Cứ An nam chí nguyên 3 tờ 210 thì "Thiền sư Giới Không là vị sư huyện Gia lâm tu hạnh đầu đà, có thể sai khiến quỷ thần theo lệnh, thú dữ đến chầu. Sau ngồi thẳng mà mất".

    Ðại nam nhất thống chí, tỉnh Bắc ninh, mục Tăng thích dẫn lại đoạn trích vừa dịch của An nam chí nguyên và sửa lại một đôi chữ thành "Giới Không người huyện Gia lâm, chân tu đắc đạo, sau ông ngồi ngay thẳng mà tịch". Nhưng truyện Giới Không ở đây nói Không "người quận Mãn đẩu". Mãn đẩu chưa bao giờ là tên của quận hay huyện Gia lâm cả. Chúng tôi nghĩ, có lẽ Giới Không được mời về ở chùa Gia lâm vào khoảng những năm 1128-1132, nên Ðại nam nhất thống chí đã ghi lầm là người Gia lâm. Thế thì, quận Mãn đẩu ở đâu?

    Các sách sử khác không thấy có quyển nào nói tới một quận tên Mãn đẩu cả. Về làng Tháp bát thuộc quận này, chúng tôi cũng chưa gặp ở một nơi nào khác. Dẫu vậy, Kiến văn tiểu lục 6 tờ 14b 4-6 có viết: "Các núi của Tuyên quang và Hưng hóa, nơi nơi đều có cây mạn để, lá nó như cây cổ độ tục gọi đát cây to tới hai hay ba thước, rất độc. Cây và lá nó trôi vào sông khe thì cá chạch đều chết". Chúng tôi nghi, quận Mãn đẩu là nơi có cây mạn để đấy. Mãn đẩu chắc là một ghi âm khác mạn để, hay ngược lại, như Cứu lan của Ðại Việt sử lược đã biến thành Cứu liên của Toàn thư và Thiền uyển tập anh. Xem chú thích (1) truyện Mãn Giác. Nếu vậy, quận Mãn đẩu nằm tại tỉnh Tuyên quang ngày nay giữa hai lưu vực sông Chảy và sông Lô.

    Xác định quê hương của Giới Không như thế, ta sẽ hiểu tại sao Không đã từng Tu hành tại núi Lịch và có môn nhân là Châu mục Phong châu là Lê Kiếm. Kiến văn tiểu lục 4 tờ 3a3 có ghi một bài bia có Hàn lâm quyền học sĩ Ðỗ Nguyên Chương viết năm Long Khánh thứ 5 (1377) cho chùa Phúc minh ỡ làng Mạn để. Làng Mạn để chắc là quận Mãn đẩu còn sót lại.

    (2)
    Núi Chân ma hiện không thấy các sách sử khác ghi. Nhưng cứ Kiến văn tiểu lục 6 tờ 6a3 có ghi một ngọn núi tên Ðán ma thuộc sơn hệ Tam đảo. Chúng tôi nghi Chân ma đó là Ðán ma đó, bởi vì từ Ðán ma đến Lịch sơn không xa lắm. Lịch sơn là núi sau này Giới Không dựng am tu.

    (3)
    Kiến văn tiểu lục 6 tờ 6a4-b1: "Núi Lịch tại xã Yên lịch, huyện Sơn dương, khởi từ núi Sư khổng, huyện Ðương đạo mà xuống đến xã đó thì đất bằng bổng nổi lên núi đất năm sáu ngọn, rẽ ngang phân một chi xuống lập thành thành Lãng sơn, chi xuống huyện Tam dương thành núi Hoàng chỉ. Trong đó núi Lịch cao nhất. Trên đỉnh có đất bằng như điện đài năm sáu chỗ, có động vua Thuấn rất thiêng. Hoa quả trên núi người ta có thể hái mà ăn, nhưng không được mang về. Nếu có ai mang về, họ liền lạc đường, không thể ra được nữa. Bên trên vua Thuấn có đền vua Nghiêu, đều phải cúng chay. Ở đấy xưa có tự điền , để cung cấp cho người giữ đền. Xã Yên lịch ở dưới núi lại có miếu vua Thuấn…"Xem thêm Ðại nam nhất thống chí, tỉnh Sơn tây, mục Sơn xuyên.

    (4)
    Hang Thánh chúa này là hang núi Kính chúa tại làng Kính chúa huyện Giáp sơn, tỉnh Hải dương thời Nguyễn, tức hang núi Thạch môn, làng Dương nham, huyện Kính môn, tỉnh Hải dương ngày nay, ở đấy có hang và hang núi hiện vẫn còn là hang Kính chủ. Bởi vì truyện đây nói Giới Không đi đến Nam sách, mới vào ở hang Thánh chúa. Và Nam sách là tên một lộ đời Trần. An nam chí lược 1 tờ 19 ghi là lộ Nam sách giang. Ðại nam nhất thống chí, tỉnh Hải dương, mục Kiến trí diên cách nói: "Năm Lê Quang Thuận thứ 7 (1466) đặt Nam sách thừa tuyên. Năm thứ 10 (1469) định bản đồ thiên hạ, gọi đó là Hải dương, Thừa tuyên gồm bốn phủ, tức Thượng hồng, Hạhồng, Nam sách và Kinh môn, lĩnh 18 huyện…" Và Nam sách thừa tuyên hay lộ Nam sách giang theo Dư địa chí đã nổi tiếng với núi Kính chủ, nơi sản xuất đá hoa.

    Viết về núi này Bắc thành địa dư chí lục 2 viết: "Núi Kính chủ tại xã Kính chủ, huyện Giáp sơn, một tên là núi Thắng hóa nham, cao 160 trượng, hang dài 60 trượng, rộng 20 trượng. Lại có chùa ở núi Lương nham tử, hướng nam, không biết dựng từ đời nào. Vua Trần Nhân Tôn đánh giặc Nguyên có đóng quân trên núi đó…Hang bên phải dài 40 thước, rộng 50 thước thờ Thiền sư Minh Không. Hang bên trái dài 7 thước rộng 20 thước thờ Lý Thần Tôn. Thổ nhân tương truyền xưa có một người đánh cá bên sông Kính chủ thấy một tượng gỗ mắc vào lưới mình, vứt ra mà tượng không ra, bèn khấn rằng nếu tượng có linh, xin giúp cho tôi có nhiều cá thì tôi sẽ thờ làm thần. Từ đó người ấy đánh được rất nhiều cá được lời, bèn rước tượng lên bờ. Người trong thôn đến xem thì thấy nó nói: "Ta là Lý Thần Tôn, nhân đi chơi mà đến đây. Nhân thế, họ lập miếu ở động núi để thờ. Họ lấy tháng giêng và tháng 10 làm tháng kỵ".

    Sự tích vừa dẫn, dù đầy đủ tính chất hoang đường quái đản, giải thích cho ta không ít tại sao ngọn núi Kính chủ hay Thánh chủ đã có tên như vậy. Thêm vào đó, Toàn thư B7 tờ 18b3 ghi: "Năm Thiệu Phong 15 (1355) mùa xuân tháng hai núi ở Trà hương băng". Cương mục chính biên tờ 10a5-7 cũng ghi việc đó, nhưng sửa lại là núi Kính chủ, rồi chua như: Kính chủ là Thánh chủ ở tại xã Kính chủ, huyện Giáp sơn, tỉnh Hải dương.

    (5)
    Niên hiệu Ðại Thuận, chỉ Ðại Việt sử lược ghi lại, còn Toàn thư và tất cả các sử khác của ta gọi là Thiên Thuận, là của Lý Thần Tôn kéo dài từ năm 1128-1132. Như vậy, tất không thể nào có chuyện "năm Ðại Thuận thứ 8" được. Chúng tôi nghi năm Ðại Thuận "thứ 8" chắc là một viết sai của năm Ðại Thuận thứ hai hoặc thứ ba. Nhưng trong khoảng Ðại Thuận, cả Ðại Việt sử lược lẫn Toàn thư không ghi một nạn dịch lớn nào xảy ra cả, nên không thể quyết đoán được. Do thế, chúng tôi vẫn để nguyên như nguyên văn đã có. Có thể năm Ðại Thuận thứ 8 là một chép lộn của năm Ðại Ðịnh thứ 8, nhưng trong khoảng Ðại Ðịnh, các sử vẫn không thấy ghi một nạn dịch nào lớn cả.

    (6)
    Tức cháu nội của châu mục Phong châu Lê Thuận Tôn và công chúa Kim Thành và là anh của Thiền sư Trí Nhàn ở dưới đây. Cứ truyện Trí Nhàn, thì Kiếm giữ chức Châu mục của Phong châu, chứ không phải một nơi nào khác.

    -------------------

    Chú thích của hungcom :

    (*)




    Ngã hữu nhất sự kỳ đặc,

    Phi thanh huỳnh xích bạch hắc.

    Thiên hạ tại gia xuất gia,

    Thân sanh ố tử vi tặc.

    Bất tri sanh tử dị lộ,

    Sanh tử chỉ thị thất đắc.

    Nhược ngôn sanh tử dị đồ,

    Trám trước Thích Ca Di Lặc.

    Nhược tri sanh tử, sanh tử,

    Phương hội lão tăng xứ nặc.

    Nhử đẳng hậu học môn nhân

    Mạc nhận bàn tinh quỹ tắc.


    Y pháp bất y nhân, Y nghĩa bất y ngữ, Y Trí bất y Thức,
    Y liễu nghĩa Kinh, bất y vị liễu nghĩa Kinh.

  4. #144
    Ban Điều Hành Avatar của hoatihon
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.150
    Thanks
    1.129
    Thanked 1.675 Times in 683 Posts


    Ta có một việc rất kỳ đặc




    Bọt vỡ tan rồi!, Mộng dở dang ...

  5. #145
    Avatar của hungcom
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    198
    Thanks
    136
    Thanked 208 Times in 79 Posts


    60. THIỀN SƯ PHÁP DUNG(1) (? – 1174)

    Chùa Hương nghiêm, núi Ma ni, phủ Thanh hóa. Người Bối lý, họ Lê, là hậu duệ của châu mục Ái châu Lê Lương đời Ðường(2), trải qua 15 đời là một danh tộc của châu đó. cha là Huyền Ngưng, đạo hiệu Tăng phán. Sư hình dung tú dị, ăn nói thanh cao. Ðối vơi kinh vàng kệ ngọc, không gì là không đọc tụng. Nhỏ theo Tăng thống Nguyễn Khánh Hỷ xuất gia. Hỷ thấy, lấy làm lạ, bèn trao pháp ấn (3). Từ đó, Sư buông chí núi sông, chẳng ngại chỗ tới. Ðến lúc phải đi hóa đạo, Sư bèn trác tích tại chùa Khai giác núi Thứu Phong, dạy dỗ học trò, người học đầy nhà. Sau Sư trở về núi Ma ni, dựng chùa để dưỡng lão.

    Ngày mồng 15 tháng 2 năm Giáp ngọ Thiên Cảm Chí Bảo thứ nhất (1174)(4), Sư không bệnh mà hóa. Môn nhơn Ðạo Lâm v.v… làm lễ hỏa táng ở núi đó và dựng tháp để thờ.


    _______________

    Chú thích :

    (1)
    Theo bia chùa Hương nghiêm do Hoàng Xuân Hãn phát hiện và dẫn trong Lý Thường Kiệt tr.453-461 thì Dung đúng ra phải có tên Ðạo Dung "nhưng những bản nay còn đều chép hiệu sư là Pháp Dung. Ấy vì đời Trần, kiêng húy Trần Hưng Ðạo". Thiền uyển tập anh, như một tác phẩm đời Trần, như vậy chắc đổi chữ Ðạo thành chữ Pháp.

    (2)
    Theo bia chùa Hương nghiêm thì Lê Lương là người đầu tiên dựng chùa Hương nghiêm ở Giáp bối lý vào thời Hậu Ðường (923-937). "Ông thuộc một cự tộc ở quận Cửu chân, châu Ái. Ông làm đến chức Trấn quốc bộc xạ. Nhà ông giàu rất có thế lực trong xứ. Thóc ông trữ đến 110 lẫm. Trong nhà ông nuôi 3000 người khách. Ông dốc một lòng thiện, rất sùng đạo Phật". Ðến khi Ðinh Tiên Hoàng lên ngôi vào năm 968, ông được phong Ái châu Cửu chân đô oai quốc dịch sứ, hàm Kim tử quang lộc đại phu, phong ấp. Ngoài chùa Hương nghiêm ra, bia còn nói ông có dựng chùa Trinh nghiêm và Minh nghiêm nữa, nhưng nay ta chưa tìm thấy chúng. Chúng có thể ở hai làng Nhân lý hay Mỹ lý.

    (3) Bia chùa Hương nghiêm: "Ðạo Dung hỏi: "Ðiều gì cốt yếu trong pháp?" Cao tăng trả lời: "Pháp vốn không phép, ta lấy gì mà bảo ngươi". Bỗng nghe Sư thấy trong lòng mở mang, bèn giác ngộ". Xem sđd., tr. 457.

    (4)
    Hoàng Xuân Hãn, sđd, tr. 460, nhận xét: "Thiền uyển tập anh chép rằng: "Rồi Sư trở về nhà, dựng chùa để ở đến lúc già. Sư mất ngày mồng 5 tháng 2 năm Giáp ngọ 1174 đời Thiên Cảm Chí Báu". Chép như vậy chắc lầm, vì rằng năm 1076 Sư đã ra Thăng long. Nếu sống đến năm 1174, thì Sư phải ít nhất cũng một trăm hai mươi tuổi".

    Cứ theo báo cáo của Hãn về cái bia chùa Hương nghiêm này, thì quả thực nó đưa ra khá nhiều vấn đề cho chúng ta về niên đại của Ðạo Dung, bởi vì theo nó thì năm 1076 Dung ra Thăng long gặp Khánh Hỷ, năm 1087 (Hãn sửa lại là năm1077) Dung trở về quê và yêu cầu tùng huynh Lưu Khánh Ðàm sửa lại chùa Hương nghiêm, cùng năm này Dung được vua Lý Nhân Tôn mời ra Thăng long lập đạo tràng trong cung, rồi năm 1122 Dung trở về quê, lại sửa chùa Hương nghiêm để ở. Sửa xong, viết bia đó vào năm 1124. Ðến lúc này, thế nào Dung cũng trên dưới 70 tuổi rồi. Không lẽ nào Dung còn sống thêm 50 năm nữa cho tới năm 1174 mới mất sao? Chúng tôi hiện chưa có nguyên văn cái bia chùa Hương nghiêm này, nên không thể bàn cãi gì thêm. Nhưng cũng cần lưu ý rằng năm Bính thìn 1076 cũng có thể là năm Ðinh mão 1147, và năm Nhâm dần 1122 có thể là năm Canh dần 1170.

    __________________________________________________ _________________________________


    THẾ HỆ THỨ MƯỜI SÁU (BA NGƯỜI)


    61. THIỀN SƯ TRÍ NHÀN (Một tên là Tĩnh Lự) (1)

    Am Phù môn, núi Cao dã, Yên lãng. Người Phong châu, họ Lê, tên Thước là miêu duệ của Ngự Man Vương triều Lê. Ông nội là Thuận Tôn làm quan với triều Lý đến chức Trung thư đại liêu ban, lấy công chúa Kim Thành. Cha là Ðạc, làm quan đến chức Minh tự. Anh là Kiếm, xa nhận chức Tam nguyên đô tuần kiểm cùng được bổ làm Châu mục. Sư sớm lo việc học hành, thi đậu tiến sĩ, sung làm Cung hầu thư gia.

    Năm 27 tuổi, một hôm theo anh dẫn tới trường giảng của Giới Không, nghe giảng kinh Kim cang đến câu "Tất cả pháp hữu vi, như mộng, huyễn, bọt bóng, như sương cũng như chớp, nên quán sát như thế" (2)(*). Sư bỗng nhiên cảm ngộ than rằng: "Năm lời của Như Lai đâu có điêu ngoa. Các pháp thế gian giả dối không thật, chỉ có đạo là thật. Ta lại đi tìm gì nữa? Vả, nhà nho có thể nói tới đạo vua tôi, cha con, còn Phật pháp thì có thể bàn đến công hạnh của Thanh văn, Bồ tát. Hai lời dạy dù khác nhưng đều quy về một. Tuy nhiên, để ra khỏi cái khổ của sống chết, và dứt trừ điều có không, thì nếu không phải giáo lý của Ðức Thích Ca, quyết không thể vậy". Bèn xin xuống tóc.

    Sau khi đã hiểu được yếu chỉ, Sư vào thẳng núi ấy, ở dưới gốc cây ngày đọc kinh, đêm thiền định, chuyên tu khổ hạnh, thề đủ sáu năm.

    Một hôm Sư ngồi thấy một con cọp đuổi một con nai đến, Sư dỗ rằng: "Tất cả chúng sinh đều tiếc tánh mạng, ngươi chớ nên giết hại nhau". Cọp cúi đầu sát đất, tỏ dấu quy y rồi đi.

    Về sau, Sư làm một cái am ở dưới chân núi, dạy dỗ học trò. Bốn phương cúng dường, của chất thành đống. Mọi Lào gần núi gọi nhau họp lại làm trộm. Mỗi khi nhà Sư ra đi, thường có con cọp lớn nằm giữ cửa am. Bọn trộm không dám xâm phạm. Người được Sư dẫn dụ trở về đường lành, số không thể kể xiết.

    Hai triều đại Anh Tôn và Cao Tôn, nhiều lần triệu thỉnh mà Sư không đáp. Phụ quốc thái úy Tô Hiến Thành và thái bảo Ngô Hòa Nghĩa đem lễ thầy trò đến tìm, trải qua 10 năm chưa hề biết mặt. Bỗng một hôm, Sư cùng các vị ấy gặp nhau, họ vui mừng khôn xiết. Vừa chào hỏi xong, Sư nói bài kệ rằng:

    "Ðã mang chí vượt, dưỡng trong lòng

    Nghe nói lời mầu, ý những nương

    Tham dục bỏ xa ngoài vạn dặm

    Hi di diệu lý ngày bao dung"
    (3)

    Lại nói:

    "Ðạm bạc giữ mình

    Chỉ đức là việc

    Hoặc bảo lời lành

    Một câu khăng khít

    Lòng không kia, ta

    Ðã hết mù mịt

    Ngày đêm xuống lên

    Không hình bám vít

    Như bóng như vang

    Không dấu theo vết


    Nói xong, Sư chấp tay ngồi thẳng mà mất. Các vị trên và đệ tử khóc lớn, tiếng vang rung động cả núi rừng.


    ________________

    Chú thích :

    (1)
    Cả hai bản in đời Lê lẫn bản in đời Nguyễn đều có "Trí thiền sư". Nhưng Ðạo giáo nguyên lưu quyển thượng tờ 16a7-8 và Ðại nam nhất thống chí, tỉnh Sơn tây, mục Tăng thích, có ghi tên một vị Thiền sư tên Trí Nhàn, mà chúng mô tả như: "Người huyện Yên lãng, siêng tu hạnh lành, thấy một con cọp đuổi một con hươu bèn bảo: "Tất cả chúng sinh đều tiếc thân mình, mầy chớ hại nhau". Con cọp cúi đầu xuống đất mà đi. Bọn mọi Lào gần núi họp nhau ăn trộm. Sư dẫn dắt khuyên dỗ, phần lớn cảm hóa theo lời sư dạy mà làm lành".

    Cứ vào mô tả đó, thì Thiền sư Trí Nhàn của Ðạo giáo lưu nguyên, Ðại nam nhất thống chí, tức "Trí Thiền sư" của Thiền uyển tập anh ở đây, chứ không ai khác, bởi vì không những hợp về quê quán, mà còn hợp về những tình tiết sống khác như chuyện nói chuyện với cọp và chuyện dạy "mọi Lào" đừng ăn trộm. Chúng tôi do thế nghi rằng: "Trí thiền sư" của ba bản in Lê, Nguyễn đã thiếu mất một chữ, đấy là chữ Nhàn, và tên đầy đủ của Trí thiền sư từ đó phải là Trí Nhàn thiền sư. Chỉ có vấn đề là Ðạo giáo nguyên lưu và Ðại nam nhất thống chí đã lấy tài liệu ở đâu đó có thể viết về Thiền sư Trí Nhàn như vậy. Chúng tôi nghi nó lấy từ An nam chí nguyên và đúng là nó lấy ra từ sách đó. An nam chí nguyên 3 tờ 210 chép việc Trí Nhàn giống như Ðại nam nhất thống chí dẫn trên. Từ đó, dĩ nhiên cuốn sách ấy tất phải sử dụng nếu không phải bản in Thiền uyển tập anh xưa nhất thì một tài liệu đã dùng bản in Thiền uyển tập anh trước bản năm 1715 xưa nhất của chúng ta hiện còn. Vì vậy, bản in trước năm 1715 chắc chắn phải có đầy đủ tên Thiền sư Trí Nhàn, chứ không phải cái tên thiếu là Thiền sư Trí, mà bản in năm 1715 do in sót tạo ra, rồi di lụy đến bản in đời Nguyễn.

    Chúng tôi do vậy đề nghị bổ sung tên Thiền sư Trí thành Thiền sư Trí (Nhàn), để cho tên các vị Thiền sư ở đây được nhất quán. Thiền sư nào cũng có hiệu do hai chữ ghép lại cả, dĩ nhiên trừ Thiền sư Ấn độ.

    (2)
    Dẫn kinh Kim cang:

    Nhất thiết hữu vi pháp

    Như mộng huyễn bào ảnh

    Như lộ, diệc như điển

    Ưng tác như thị quán.


    (3)
    Hy Di chi lý, tức đạo lý cao siêu. Ðạo đức kinh chương 14 định nghĩa chữ Hy Di thế này: "Xem mà không thấy, gọi là Di; lắng mà không nghe gọi là Hi" (**)

    --------------------

    Chú thich của hungcom :


    (*)

    一 切 有 為 法 , 如 夢 幻 泡 影
    nhất thiết hữu vi pháp như mộng huyễn bào ảnh
    (Tất cả pháp hửu vi như mộng, huyễn, bọt và ảnh)

    如 露 亦 如 電 , 應 作 如 是 觀
    như lộ diệc như điện ưng tác như thị quán
    (như sương cũng như chớp nên thường quán như thế)


    (**)

    視 之 不 見, 名 曰 夷. 聽 之 不 聞, 名 曰 希.
    Thị chi bất kiến, danh viết Di. Thính chi bất văn, danh viết Hi.


    Y pháp bất y nhân, Y nghĩa bất y ngữ, Y Trí bất y Thức,
    Y liễu nghĩa Kinh, bất y vị liễu nghĩa Kinh.

  6. #146
    Ban Điều Hành Avatar của hoatihon
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.150
    Thanks
    1.129
    Thanked 1.675 Times in 683 Posts


    Như mộng, như huyễn




    Bọt vỡ tan rồi!, Mộng dở dang ...

  7. #147
    Avatar của hungcom
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    198
    Thanks
    136
    Thanked 208 Times in 79 Posts


    62. THIỀN SƯ CHÂN KHÔNG (1046-1100)



    Chùa Chúc thánh, núi Phổ lại, Phù lan (1). Người Phù đổng, Tiên du, họ Vương, tên Hải Thiềm, xuất thân từ vọng tộc. Khi mẹ mang thai, cha mộng thấy một tăng sĩ trao cho tích trượng, nhân đó có được Sư.

    Thuở nhỏ, Sư mồ côi, khổ công đọc sách, không thích việc vặt. Năm 15 tuổi rộng hiểu sách vở. Ðến năm 18 Sư dạo khắp thiền lâm đi tìm ấn chứng. Nhân đó đến hội giảng của Thảo Nhất tại chùa Tịnh lự, núi Ðông cứu (2) nghe giảng kinh Pháp hoa, Sư bỗng nhiên tỏ ngộ.

    Từ đó, cơ duyên hòa hợp, rùa gỗ gặp nhau (3). Nhập thất sáu năm, học hỏi nghiên cứu mỗi ngày một thêm tiến bộ. Sau nhận được tâm ấn. Sư liền đến ở núi ấy theo luật mà tự phòng hộ, không rời khỏi núi, trải qua 20 năm tiếng khen đồn khắp.

    Vua Lý Nhân Tôn nghe được, xuống chiếu mời Sư vào đại nội để giảng kinh Pháp hoa, thính giả tìm đến tấp nập. Bấy giờ thái uý Nguyễn Thường Kiệt, thứ sử Lạng châu là tướng quốc Thân Công (4) càng thêm kính trọng, thường bỏ của riêng ra cúng dường Sư. Sư được những gì đều đem sửa chùa xây tháp và đúc hồng chung để lưu lại ở trấn.

    Một lần, có một vị Tăng hỏi: "Thế nào là đạo mầu?"

    Sư đáp: "Giác ngộ rồi mới biết"

    Tăng hỏi thêm: "Ðối với giáo chỉ của người xưa thì người học này chưa hiểu. Nay dạy như vậy làm sao hiểu được?"

    Sư đáp:

    "Nếu đến nhà tiên trong động thẳm

    Thuốc đan đổi cốt được đem về"(*)

    Hỏi: "Thế nào là viên thuốc đan?"

    Sư đáp:

    "Nhiều kiếp ngu si không biết rõ

    Sáng nay chợt ngộ được tỏ bày"(**)

    Hỏi: "Thế nào là tỏ bày?"

    Sư đáp: "Tỏ bày chiếu khắp cõi Ta bà

    Tất cả chúng sinh cùng một nhà".(***)

    Lại hỏi: "Tuy không giải đích xác nơi nơi đều gặp y (5). Cái nào là y?"

    Sư đáp: "Lửa kiếp (6) lẫy lừng thiêu rụi hết

    Núi xanh như cũ trắng mây bay".(****)

    Lại hỏi: "Sắc thân tan rã rồi thì sao?"

    Sư đáp: "Xuân đến xuân đi nghi xuân hết

    Hoa rơi hoa nở chỉ là xuân"(*****)

    Tăng ngẫm nghĩ, Sư quát:

    "Ðồng bằng sau cơn lửa

    Cây cối mỗi tươi thơm"(******)

    Tăng vái lạy.

    Tuổi già, Sư về quận mình, dựng lại chùa Bảo cảm. Ðến ngày 01 tháng 11 năm Hội Phong thứ 9 (1100), khi sắp tịch, Sư nói bài kệ:

    "Trống vắng gốc mầu sáng rực ra

    Gió hòa nổi dậy khắp Ta bà

    Người người thảy biết vô vi sướng

    Nếu được vô vi mới phải nhà".
    (*******)

    Vào nửa đêm hôm đó, Sư lại nói:

    "Ðạo tâm đã thành

    Giáo ta đã hành

    Ta theo biến hóa".

    Rồi ngồi kiết già mà mất, thọ 55 tuổi đời, 36 tuổi hạ, hoàng thái hậu và công chúa Thiên Thành, cùng đệ tử Ni sư Diệu Nhân đều đem dâng lễ vật. Qua hai ngày sau, đại sư Nghĩa Hải chùa Ðại minh và sa môn được ban ấn tín Pháp Thành đem đồ chúng và sắm sửa lễ vật đến chôn Sư, xây tháp ở ngoài trai đường. Học sĩ Nguyễn Văn Cử phụng chiếu soạn bài minh cho tháp, công bộ thượng thư Ðoàn Văn Khâm có thơ truy điệu rằng:

    "Triều đình thôn dã nức cao phong

    Gậy chống như mây gặp hội rồng

    Kinh hãi nhà nhân, cây huệ gẫy

    Than dài rừng đạo, đọt tùng buông

    Cỏ biếc vây mồ thêm tháp mới

    Núi xanh soi nước thấy hình vương

    Cửa thiền vắng vẻ nào ai gõ

    Qua đấy chuông chiều vẳng tiếng buồn"


    _________________

    Chú thích :

    (1)
    Lịch triều hiến chương loại chí 3 tờ 2a7-b1 viết: "Núi Phổ lại tại xã Phổ lại, huyện Quế dương, núi đá rất cao, ngó xuống dòng sông Lục đầu, cảnh trí khoáng đãng. Trên núi có chùa Chúc thánh, đó là nơi tu hành luyện tinh của Thiền sư Không lộ. Thời Trần, vua quan thường hay đến đó ngâm vịnh….". Xem thêm Ðại nam nhất thống chí tỉnh Bắc ninh, mục Sơn xuyên. Nay là núi Phả lại tại xã Phả lại, huyện Quế dương, tỉnh Hà bắc.

    Một khi đã xác định vị trí của núi Phả lại như thế thì vị trí của chùa Phù lan tất không thể giới hạn theo Cương mục chính biên 1 tờ 27a4 được, bởi vì theo nó thì "Phù lan là tên một trại, nay là xã Phù vệ thuộc huyện Ðường hào, tỉnh Hải dương". Ðất của trại Phù lan đời Lê và Lý, ngoài huyện Ðường hào ra, còn phải ăn thâm lên một phần nào đất huyện Quế dương và có thể là huyện Chí linh nữa.

    (2)
    Ðại Việt sử lược 2 tờ 10b3-4 viết: "Năm Long Thụy Thái Bình thứ hai (1055) dựng chùa Tĩnh lự ở núi Ðông cứu". Lịch triều hiến chương loại chí 3 tờ 6a1 viết: "Núi Ðông cứu tại huyện Gia định gồm nhiều ngọn núi đứng thẳng, ngó xuống dòng sông. Trên núi có chùa Thiên thai, cảnh trí cũng đẹp. Trịnh Dụ Tổ thường đến chơi nơi ấy…". Huyện Gia định năm Minh mạng thứ 1 (1820) đổi làm huyện Gia bình, nên Ðại nam nhất thống chí, tỉnh Bắc ninh, mục Sơn xuyên nói: "Núi Thiên thai tại tây bắc huyện Gia bình 5 dặm, một ngọn đứng cao chót vót, đá đất lẫn lộn, bên cạnh có những ngọn khác ngó xuống dòng sông. Trên núi có chùa, có thể gọi là đẹp đẽ. Nó một tên là núi Ðông cứu một tên là núi Ðông cao".

    Vị sư Thảo Nhất của chùa này, mà truyện Chân Không đây nói tới, ta hiện không biết một tí gì.

    (3)
    Qui mộc tương giao. Ðiển rút từ kinh Tạp a hàm: "Trong biển lớn có một con rùa đui, sống lâu vô lượng kiếp, cứ trăm năm thì ló đầu lên một lần. Lại có một khúc gỗ nổi chỉ có một lỗ hổng, trôi dạt theo sóng biển, tùy gió mà trôi đông hay trôi tây. Con rùa mù một trăm năm ló đầu một lần mà gặp lỗ hổng của khúc gỗ đó, thật là khó thay". Xem Tạp a hàm kinh 16. Xem thêm kinh Niết bàn: "Sinh ra đời làm người là một chuyện khó. Gặp được thời cũng khó. Giống như con rùa mù trong biển lớn gặp được một lỗ hổng trên khúc cây". Xem Ðại bát niết bàn kinh 2.

    (4)
    Tức phải chỉ Thân Ðạo Nguyên, con của Thân Thiện Thái và công chúa Bình Dương, bởi vì không những Nguyên đồng thời với Lý Thường Kiệt, mà còn vì vợ của Nguyên là công chúa Thiên Thành dưới đây cũng đến cúng dường Chân Không. Theo Ðại Việt sử lược 2 tờ 11a7-8 và 15a2 thì Nguyên cũng có tên là Thân Cảnh Nguyên, được Lý Thánh Tôn chọn làm phò mã năm 1059 và 1066 thì chính thức cưới công chúa Thiên Thành. Tục tư trị thông giám trường biên 279 tờ 11a gọi Nguyên là Thân Cảnh Phúc, còn Mộng khê bút đàm 2 thì gọi là Thân Cảnh Long. Ta chưa hiểu rõ tại sao lại có nhiều sai chạy như vậy. Dẫu sao , Nguyên là một trong những vị tướng lãnh có công đầu trong trận chống quân xâm lược Tống năm 1075.

    (5) Thiền sư Ðộng Sơn Lương Giới, khi bước qua dòng nước thấy cái bóng mình mà ngộ đạo, bèn làm bài thơ:

    "Thiết kỵ tùng tha mích

    Thiều thiều dữ ngã cư

    Ngã kim độc tự vãng

    Xứ xứ phùng đắc cừ".


    (Rất kỵ tìm nơi khác

    Cùng ta nó luôn đi

    Ta nay riêng tự đến

    Nơi nơi đều gặp y)


    Xem Truyền đăng lục 15 tờ 321c19. Khái niệm "nơi nơi đều gặp y" là rút từ bài thơ vừa dẫn.

    (6)
    Kiếp hỏa. Thế mạt luận Phật giáo nói vào lúc hủy diệt, thế giới sẽ bị thiêu rụi bởi một ngọn lửa có sức nóng bằng bảy mặt trời. Ngọn lửa đấy gọi là kiếp hỏa hay lửa kiếp. Xem A tỳ đạt ma câu xá luận 12. Quan niệm thế mạt đó sau này Thiền tôn mượn để đặt thành công án. Công án thứ 29 của Bích nham lục đặt vấn đề thế này: "Khi lửa kiếp lẫy lừng, vũ trụ thiêu hoại, thì cái gì hoại, cái gì không hoại?". Xem Bích nham lục 3 tờ 169a 17-18.



    --------------------

    Chú thích của hungcom :


    (*)

    Nhược đáo tiên gia thâm động nội
    Hoàn đan hoán cốt đắc hoài qui


    (Nếu đến nhà tiên trong động thẳm
    Thuốc đan thay cốt được mang về)



    (**)

    Lịch kiếp ngu mông vô động hiểu
    Kim thần nhất ngộ đắc khai minh


    (Lịch kiếp ngu mông vô động hiểu
    Kim thần nhất ngộ đắc khai minh)



    (***)

    Khai minh chiếu triệt sa hà giới
    Nhất thiết chúng sinh cộng nhất gia.


    (Khai minh chiếu khắp cõi ta bà
    Hết thảy chúng sinh đều một nhà.)



    (****)

    Kiếp hỏa động nhiên hào mạt tận
    Thanh sơn y cựu bạch vân phi


    (Lửa kiếp lẫy lừng thiêu rụi hết
    Núi xanh như cũ trắng mây bay)



    (*****)

    Xuân lai, Xuân khứ, nghi Xuân tận
    Hoa lạc hoa khai chỉ thị Xuân


    Xuân đến xuân đi ngờ xuân hết
    Hoa nở, hoa tàn, ấy vẫn xuân.



    (******)

    Bình nguyên kinh hỏa hậu
    Thực vật các thủ phương.


    (Đất bằng sau cơn lửa
    Cây cối đượm hương thơm.)



    (*******)


    妙本虛無日日誇,
    和風吹起遍沙婆。
    人人盡識無為樂,
    若得無為始是家。


    Diệu bản hư vô nhật nhật khoa,
    Hoà phong xuy khởi biến sa bà.
    Nhân nhân tận thức vô vi lạc,
    Nhược đắc vô vi thuỷ thị gia.

    Y pháp bất y nhân, Y nghĩa bất y ngữ, Y Trí bất y Thức,
    Y liễu nghĩa Kinh, bất y vị liễu nghĩa Kinh.

  8. #148
    Ban Điều Hành Avatar của hoatihon
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.150
    Thanks
    1.129
    Thanked 1.675 Times in 683 Posts


    Nhất Như







    Bọt vỡ tan rồi!, Mộng dở dang ...

  9. #149
    Avatar của hungcom
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    198
    Thanks
    136
    Thanked 208 Times in 79 Posts


    63. THIỀN SƯ ÐẠO LÂM (? – 1203)



    Chùa Long vân, làng Siêu loại, Long phước (1). Người Cửu cao, Chu diên (2), họ Tăng sớm mộ Không tôn (3), chỉ hạnh thuần khiết. Ban đầu, Sư theo Pháp Dung chùa Hương nghiêm thọ nghiệp. Trải qua nhiều năm, mật nhận tâm ấn, bèn được chính Dung giao phó đèn Tổ, tùy chỗ thắp sáng, theo cơ giúp việc, lợi người không ít.

    Ðến tháng 5 năm Quý hợi Thiên Gia Bảo Hựu thứ 2 (1203), Sư ngồi kiết già mà mất.(4)


    _________________


    THẾ HỆ THỨ MƯỜI BẢY

    (CÓ BỐN NGƯỜI, MỘT NGƯỜI KHUYẾT LỤC)


    64.THIỀN SƯ DIỆU NHÂN (1042-1113)


    Viện Hương hải, làng Phù đổng, Tiên du. Cô tên là Ngọc Kiều, con gái lớn của Phụng Yết Vương (1), bẩm tính hiền thục, ngôn hạnh có pháp. Vua Lý Thánh Tôn nuôi ở trong cung. Ðến tuổi cập kê, vua gả cho thâu mục Chân đăng họ Lê. Họ Lê mất, tự thề ở vậy giữ nghĩa không tái giá.

    Một hôm than rằng: "Ta xem thế gian, hết thảy các pháp cũng như mộng huyễn, huống gì bọn phù vinh có thể nương tựa được sao?"

    Do đó, đem cho sạch các đồ trang sức, xuống tóc xuất gia, đến thọ Bồ tát giới với Chân Không tại làng Phù đổng, học hỏi tâm yếu. Chân Không vì vậy ban hiệu và cho phép trụ trì tại ni viện. Cô giữ giới, hành thiền, đạt được Tam ma địa, thật là bậc tôn túc trong hàng ni chúng. Có ai đến cầu học, cô tất đem Ðại thừa ra giảng dạy và nói: "Chỉ trở về nguồn tự tính, thì đốn tiệm có thể tùy đó mà thể nhập, hãy thường tịch tịnh, tránh xa thanh sắc, ngôn ngữ"

    Có học trò hỏi: "Tất cả chúng sinh bệnh, cho nên ta bệnh (2), sao gọi là khi nào cũng tránh xa thanh sắc?"

    Cô đem giáo nghĩa đáp: "Nếu lấy sắc thấy ta, lấy âm thanh cầu ta, là người làm tà đạo, không thể thấy Như Lai" (3)(*)

    Lại hỏi: "Sao gọi là ngồi yên" (4)

    Cô đáp: "Xưa nay không đi"

    Lại hỏi: "Sao gọi là không lời?"

    Cô đáp: "đạo vốn không lời".

    Ngày 01 tháng 6 năm Hội Tường Ðại Khánh thứ 4 (1113), cô cáo bệnh (5) nói kệ:

    "Sinh, già, bệnh, chết

    Từ xưa thường vậy

    Muốn cầu thoát ly

    Cởi trói thêm buộc

    Mê mới tìm Phật

    Lầm mới cầu thiền

    Thiền Phật chẳng tìm

    Ngậm miệng không nói"
    (6)(**)

    Bèn gội tóc, rửa mình, ngồi kiết già mà tịch, thọ 72 tuổi.


    ___________________


    Chú thích :


    THIỀN SƯ ÐẠO LÂM

    (1)
    Cái tên Long Phúc được nhắc tới hai lần trong Thiền uyển tập anh một ở đây và một ở truyện Y Sơn tờ 70b1. Cứ vào thành phần cấu tạo nên nó, tức làng Siêu loại và Ðại thông trường, ta có thể xác định phần đất đó thuộc gồm hai huyện Siêu loại và Gia bình đời Nguyễn, tức huyện Thuận thành và phần bắc huyện Gia lương, tỉnh Hà bắc hiện nay.

    (2)
    Cương mục tiền biên 2 tờ 10b1-2 nói: ‘Huyện Chu diên đời Hán đặt thuộc quận Giao chỉ, đời Ðường đổi làm Diên châu, đời Lê là phủ Tam đái, nay tức là đất phủ Vĩnh tường, tỉnh Sơn tây". Nhưng cả Tùy thơ 21 tờ 7b8 lẫn Cựu Ðường thơ 41 tờ 42b11 đều nói Chu diên là đất quận Vũ bình thời trước. Mà ta đã khảo ra đất quận Vũ bình rơi vào khoảng tỉnh Hưng yên ngày nay. Xem chú thích (2) truyện Tịnh Lực. Ngoài ra Nguyên hòa quận huyện đồ chí 38 tờ 13a1 và Thái bình hoàn vũ ký 170 tờ 10a5 lại ghi Chu diên ở về phía đông nam, trị phủ Giao châu, nghĩa là đóng phía nam thành phố Hà nội ngày nay. Chi tiết này Ðộc sử phương dư kỷ yếu cũng chép y lại. Như vậy Chu diên chắc phải nằm phía đông nam thành phố Hà nội, nhưng nó gồm phần đất những huyện nào?

    Truyện Ðạo lâm đây nói Lâm "người Cửu cao, Chu diên". Mà cứ Ðại Việt lịch triều đăng khoa lục 2 có ghi ba người đỗ tiến sĩ xuất thân từ làng Cửu cao "hạt Gia lâm". Ðây là Trần Văn Bính khoa năm 1505, Vũ Hữu Nghiêm khoa năm 1514 và Nguyễn Di khoa năm1532. Làng Cửu cao này đến khoảng năm 1685 thì đổi thành làng Thượng tốn bởi vì khoa năm đó có Ðỗ Công Bật "người hạt Thượng tốn", đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân đến con của Bật là Ðỗ Công Ðỉnh cũng là đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ khoa 1706 và Ðỉnh lại ghi là người làng Thượng tốn hạt Gia lâm. Mà ta biết làng Thượng tốn là làng Cửu cao đổi ra, vì Ðại Việt lịch triều đăng khoa lục khi nói Trần Văn Bính là người làng Cửu cao, thì có chua thêm tức làng Thượng tốn.

    Như vậy, làng Cửu cao, Chu diên nay là làng Thượng tốn, huyện Gia lâm tỉnh Bắc ninh. Ðịa phận của Chu diên do thế phải ăn thâm vào phần đất của huyện Gia lâm tỉnh Bắc ninh. Vùng Chu diên xưa từ đó có thể gồm phần đất của những huyện Gia lâm, tỉnh Bắc ninh và huyện Ðông yên, tỉnh Hưng yên ngày nay.

    (3)
    Tức chỉ Phật giáo, bởi vì toàn bộ tư tưởng Phật giáo được xếp thành hữu tôn, Không tôn và Tánh tôn mà Tánh tôn lại bao hàm cả hữu lẫn không tôn. Nhưng Tánh tôn và Không tôn lại bị "các Thiền gia lộn cho là cùng một tôn, một giáo", nên Phật giáo gọi là không tôn. Xem Tôn cảnh lục 34 tờ 616a6-617a4.

    (4)
    Truyện Tịnh Thiền tờ 68a7 nói: "Ðến khi Lâm mất rồi, Thiền bèn đi khắp chốn thiền tìm bạn học thêm". Mà Thiền mất vào năm 1139. Như vậy Lâm tối thiểu cũng phải mất trước năm đấy chừng mười năm, chứ đâu lại có chuyện mất vào năm 1203, nghĩa là sau khi Thiền chết những mười năm. Lại thêm vấn đề, niên hiệu Thiên Gia Bảo Hựu chỉ thấy ở Toàn thư B4 tờ 22b8 và 23a5, trong khi Ðại Việt sử lược 3 tờ 14a1 v.v… viết là Thiên Tư Bảo Hựu. Chúng tôi do thế nghi rằng có thể người hiệu đính bản in năm 1715 đã sửa thêm niên hiệu Thiên Gia Bảo Hựu đấy vào, mà là tự nguyên ủy có thể là Thiên Cảm Chí Bảo hay Chính Long Bảo Ứng. Vấn đề niên đại các vị sư ở đây thật là nan giải. Trừ khi tìm thêm những bia văn mới, ta mới có thể giải quyết một phần nào.

    Chúng tôi hiện biết tính chất ngược ngạo phi lý của niên đại 1203 đấy, nhưng không thể đề nghị một cách có căn cứ một niên đại giả thiết nào mới, vì niên hiệu Thiên Gia Bảo Hựu năm thứ 2 đã nhằm đúng năm can chi của nó, tức năm Quý hợi, như Toàn thư đã có. Dẫu sao, ta phải giả thiết Lâm phải mất trước Thiền khoảng mười năm, tức có thể khoảng năm 1175.

    ---------------

    NI SƯ DIỆU NHÂN

    (1)
    Tức Phụng Càn Vương, tước của Lý Nhật Trung do cha là Lý Thái Tôn phong vào năm 1035. Chữ Càn vì húy đời Trần, nên đổi ra chữ Yết. Toàn thư B6 tờ 30a2-3: "Cửa Cần, trước gọi là Càn, vì tránh húy nên làm Cần".

    (2)
    Duy ma cật sở thuyết kinh quyển trung tờ 544b21: "Dĩ nhất thiết chúng sanh bệnh, thị cố ngã bệnh".

    (3)
    Kim cang kinh:

    "Nhược dĩ sắc kiến ngã,

    Dĩ âm thanh cầu ngã,

    Thị nhân hành tà đạo,

    Bất năng kiến Như Lai".


    (4)
    Yến tọa, ngồi tĩnh lặng tư duy. Ở đây ám chỉ thiền thoại Tu Bồ Ðề yến tọa mà các thiền gia thường nhắc tới như sau: "Tu Bồ Ðề yến tọa trong một đống đá. Chư thiên mưa hoa tán thán. Tôn giả hỏi: "Trong hư không làm mưa hoa tán thán là ai đó?" Thiên trả lời: "Tôi là Phạm Thiên. Tôi tôn trọng Tôn giả khéo nói bát nhã ba la mật đa". "Ta đối với Bát nhã chưa từng nói một chữ, làm sao ngươi tán thán?" Thiên nói: "Tôn giả không nói, tôi cũng không nghe. Không nghe, không nói ấy là một chân thật về Bát nhã". Xem Giáo ngữ lục tờ 680a5.

    (5)
    Toàn thư B3 tờ 16a7-9: "(Hội Tường Ðại Khánh) năm thứ 4 (1113) mùa hạ tháng 6, phu nhân Châu mục châu Chân đăng công chúa họ Lý mất. Phu nhân tên Ngọc Kiều là con gái lớn của Phụng Càn Vương. Thánh Tôn nuôi trong cung đến lớn, gả cho châu mục họ Lê Châu chân đăng. Họ Lê chết, cô tự thề ở góa, rồi xuất gia làm Ni. Ðến đó mất, thọ 72 tuổi. Thần Tôn tôn hiệu là Ni sư".

    (6)
    Bài kệ này Thái tôn hoàng đế ngự chế khóa hư quyển hạ tờ 33b 1-4 có chép và nói là bài kệ khuyên chúng của Trần Thái Tôn:

    Sinh lão bệnh tử

    Lý chi thường nhiên

    Dục cầu giải thoát

    Giải phược thiêm triền

    Mê nhi cầu Phật

    Hoặc nhi cầu thiền

    Thiền giả bất cầu

    Ðổ khẩu vong ngôn.


    Những chữ in nghiêng là khác với chữ trong bản Thiền uyển tập anh ở đây. Với những chữ khác ấy, chúng tôi nghĩ rằng Trần Thái Tôn đã lấy lại bài kệ thị tịch của Ni sư Diệu Nhân, rồi đổi một vài chữ, để làm của mình, nhất là khi quan niệm "nhất hồi niêm xuất, nhất hồi tân" (mỗi hồi nêu ra, mỗi hồi mới) của các Thiền gia đời Trần đối với các công án cũ rất là phổ biến. Trần Nhân Tôn, khi có người hỏi sao mình cứ lập lại các công án cũ của người xưa như thế, đã trả lời: "Nhất hồi niêm xuất, nhất hồi tân"



    ----------------

    Chú thích của hungcom :

    (*)


    若 以 色 見 我 _ 以 音 聲 求 我
    nhược dĩ sắc kiến ngã, dĩ âm thanh cầu ngã
    Nếu lấy sắc thấy Ta, hoặc lấy tiếng cầu Ta

    是 人 行 邪 道 _ 不 能 見 如 來
    thị nhân hành tà đạo, bất năng kiến Như Lai
    người ấy hành tà đạo, chẳng thấy được Như Lai



    (**)

    生 老 病 死,
    自 古 常 然。
    欲 求 出 離,
    解 縛 添 纏。
    迷 之 求 佛,
    惑 之 求 禪。
    禪 佛 不 求,
    杜 口 無 言。


    Sinh lão bệnh tử,
    Tự cổ thường nhiên.
    Dục cầu xuất ly,
    Giải phược thiêm triền.
    Mê chi cầu Phật,
    Hoặc chi cầu Thiền.
    Thiền Phật bất cầu,
    Đỗ khẩu vô nghiên (ngôn).

    Y pháp bất y nhân, Y nghĩa bất y ngữ, Y Trí bất y Thức,
    Y liễu nghĩa Kinh, bất y vị liễu nghĩa Kinh.

  10. #150
    Ban Điều Hành Avatar của hoatihon
    Tham gia ngày
    May 2015
    Bài gửi
    2.150
    Thanks
    1.129
    Thanked 1.675 Times in 683 Posts


    Nhược dĩ sắc kiến Ngã






    Bọt vỡ tan rồi!, Mộng dở dang ...

Thông tin chủ đề

Users Browsing this Thread

Hiện có 1 người đọc bài này. (0 thành viên và 1 khách)

Quyền viết bài

  • Bạn không thể gửi chủ đề mới
  • Bạn không thể gửi trả lời
  • Bạn không thể gửi file đính kèm
  • Bạn không thể sửa bài viết của mình
  •